Blogger Widgets
Nguyen Tan Dung

Tieu su thu tuong Nguyen Tan Dung

Để tránh những luồng thông tin trái chiều và sai sự thật, Thôn làm báo đưa ra một số thông tin về tiểu sử của thủ tướng VN NGUYỄN TẤN DŨNG Đọc thêm...

Truong Tan Sang

Tiểu sử CTN Trương Tấn Sang

Tại phiên làm việc hôm nay (25/7), với 487 số phiếu tán thành, chiếm 97,4%, Quốc hội đã bầu ông Trương Tấn Sang giữ chức Chủ tịch nước. Xin trân trọng giới thiệu tóm tắt tiểu sử của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang Đọc thêm..

Lê Thanh Hải

Tiểu sử Lê Thanh Hải: Ủy viên Bộ Chính trị - Bí thư Thành ủy TPHCM

Để trả lời cho câu hỏi Lê Thanh Hải là ai, tránh những luồng thông tin sai sự thật về ông Lê Thanh Hải, Thôn làm báo cung cấp tiểu sử/ lý lịch Lê Thanh Hải Ủy viên Bộ Chính trị - Bí thư Thành Ủy TP.HCM: Tiểu sử và quá trình hoạt độn Đọc thêm...

Nguyễn Phú Trọng

Tiểu sử Nguyễn Phú Trọng: Tổng bí thư ban chấp hành TW Đảng

Để trả lời cho câu hỏi ông Nguyễn Phú Trọng là ai? là người như thế nào ? Mời các bạn theo dõi những luồng thông tin đúng sự thật về tiểu sử/lý lịch và quá trình hoạt động của Tổng bí Thư Nguyễn Phú Trọng Đọc thêm...

ALT_IMG

Tiểu sử Trần Đại Quang: Bộ trưởng Bộ Công an Ủy viên Bộ Chính trị

Để trả lời cho câu hỏi ông Trần Đại Quang là ai? là người như thế nào ? Mời các bạn theo dõi những luồng thông tin đúng sự thật về tiểu sử/lý lịch và quá trình hoạt động của Bộ trưởng Bộ Công an - Ủy viên Bộ Chính trị Trần Đại Quang Xem thêm...

Thứ Tư, 2 tháng 5, 2012

Kiều bào ủng hộ quân dân Trường Sa

0 nhận xét
Hôm qua (1/5), tại trụ sở Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài - Bộ Ngoại giao – đã diễn ra lễ tiếp nhận tiền của một số cá nhân, tổ chức người Việt Nam tại các nước Mỹ, Đức, Ba Lan, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thái Lan gửi ủng hộ quân dân Trường Sa.


Hưởng ứng đợt phát động "Vì biển đảo thân yêu" của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài (Ủy ban), liên tục trong thời gian qua, nhiều cá nhân và tổ chức người Việt Nam ở nước ngoài đã thông qua Uỷ ban tích cực ủng hộ chia sẻ với quân dân huyện đảo Trường Sa.

Nhân dịp về tham dự cùng Đoàn công tác của Ủy ban ra thăm quân dân huyện đảo Trường Sa, một số cá nhân, tổ chức người Việt Nam tại Mỹ, Đức, Ba Lan, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thái Lan đã chuyển tới Ủy ban số tiền tương đương 516 triệu VNĐ (theo tỷ giá ngày 1/5) để nhờ gửi ủng hộ quân dân Trường Sa.

Thay mặt lãnh đạo Ủy ban, ông Trần Công Thịnh - Phó Chánh Văn phòng Ủy ban - đã tiếp nhận số tiền trên. Ông Thịnh cảm ơn tình cảm, sự sẻ chia của các cá nhân và tổ chức kiều bào và hứa sẽ chuyển số tiền trên tới quân dân Trường Sa trong thời gian sớm nhất.

Hải Yến
Xem thêm →

PTT Nguyễn Thiện Nhân: phải bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm

0 nhận xét
Nghị định số 38/2012/NĐ của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật an toàn thực phẩm đã được ban hành ngày 25/4. Trước đó, Chiến lược quốc gia An toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2020 và Tầm nhìn 2030 cũng đã được phê duyệt. Nhân dịp này, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân đã trả lời phỏng vấn xung quanh vấn đề bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.

* Phóng viên (PV): Thưa Phó Thủ tướng, chưa bao giờ vấn đề an toàn thực phẩm lại thu hút sự quan tâm đặc biệt, không chỉ của dư luận mà cả của Đảng, Quốc hội, Chính phủ. Những vấn đề thiết thân hàng ngày, tưởng là nhỏ như việc ăn uống của người dân, đã trở thành vấn đề nghị sự quốc gia, xin Phó Thủ tướng chia sẻ ý kiến về vấn đề này?

* Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân (Phó Thủ tướng): Bản chất chế độ xã hội của chúng ta là chăm lo cuộc sống cho toàn dân. Bên cạnh việc tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập cho người dân, việc làm thế nào để đảm bảo bữa ăn ngon, an toàn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mỗi gia đình và cả quốc gia. Thời gian qua, công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm tuy đạt được những kết quả nhất định, nhưng còn rất nhiều vấn đề ngổn ngang mà dư luận xã hội rất quan tâm. Ý nghĩa của an toàn vệ sinh thực phẩm không phải là chuyện nhỏ mà là vấn đề rất lớn. Quốc hội vừa thông qua Luật an toàn thực phẩm, trên cơ sở đó ngày 4/1/201, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược an toàn vệ sinh thực phẩm giai đoạn 2011-2020 và Tầm nhìn 2030.

* PV: Xin Phó Thủ tướng cho biết, tại sao trong Chiến lược quốc gia về an toàn thực phẩm có tính đến tầm nhìn 2030?

* Phó Thủ tướng: Chính phủ phải định hướng công tác an toàn vệ sinh thực phẩm không chỉ đến năm 2020 mà kéo dài đến tận 2030, cho thấy những khó khăn, bất cập của vấn đề đảm bảo an toàn thực phẩm không thể giải quyết nhanh một sớm một chiều, mà phải có Tầm nhìn dài hạn. Gần đây nhất, ngày 25/4 Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định hướng dẫn thi hành một số điều của Luật an toàn thực phẩm và chỉ sau 01 ngày Ban chỉ đạo liên ngành Trung ương về an toàn về sinh thực phẩm đã tổ chức họp định kỳ thông qua cầu truyền hình, với khoảng 1000 cán bộ quản lý nhà nước các cấp đã tham gia cuộc giao ban trực tuyến này.

* PV: Phó Thủ tướng là Trưởng Ban chỉ đạo liên ngành Trung ương về an toàn vệ sinh thực phẩm, Phó Thủ tướng có nhận xét và đánh giá như thế nào sự vào cuộc của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm?

* Phó Thủ tướng: Ban chỉ đạo Quốc gia an toàn thực phẩm đã hoạt động được 4 năm và thời gian trước đó, cho thấy sự vào cuộc của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp và các đoàn thể đã ngày càng tốt hơn. Bên cạnh những khó khăn cần giải quyết, cũng nhận thấy có sự tiến bộ rõ rệt về công tác an toàn vệ sinh thực phẩm. Nếu năm 2011, số vụ ngộ độc, số người ngộ độc và số người tử vong do ngộ độc thực phẩm đều đã giảm, đặc biệt số người tử vong vì ngộ độc thực phẩm giảm gần một nửa so với thời gian trước đó. Điều này hết sức có ý nghĩa vì không gì có thể thay đổi, đo đếm được bằng tính mạng người dân. Bên cạnh đó, số vụ thanh tra, kiểm tra cơ sở sản xuất chăn nuôi, chế biến thực phẩm đã diễn ra thường xuyên và công tác giám sát cũng liên tục được mở rộng về quy mô, năm sau cao hơn năm trước nhiều lần. Kết quả đánh giá năm 2011 cho thấy nhận thức của người chế biến và tiêu dùng: thế nào an toàn thực phẩm đã đạt trên 80%. Từ nhận thức đúng về an toàn thực phẩm, các địa phương đang triển khai một số mô hình khá hiệu quả. Ví dụ tại TP.Hồ Chí Minh đã hình thành hệ thống các chuỗi liên kết 3 NHÀ, từ cung cấp đến chế biến và ra chợ cho 3 mặt hàng chính là rau, thịt, cá. Hoặc Hà Nội có mô hình thực phẩm đường phố an toàn từ 74 xã, phường, đến nay là hơn 100 đơn vị tham gia và sẽ tiếp tục triển khai.

* PV: Thưa Phó Thủ tướng, những chính sách và giải pháp về an toàn vệ sinh thực phẩm chúng ta đang triển khai đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra? Nguyên tắc an toàn thực phẩm “từ trang trại đến bàn ăn” được triển khai thực hiện như thế nào nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu?

* Phó Thủ tướng: Nhóm giải pháp thứ nhất là: Chiến lược quốc gia về An toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2020 và Tầm nhìn 2030 ra đời cùng Nghị định, các thông tư liên tịch, nhằm hướng dẫn cụ thể thi hành Luật an toàn thực phẩm, cho thấy chưa bao giờ hệ thống luật pháp về an toàn vệ sinh thực phẩm của chúng ta lại đồng bộ và đầy đủ như bây giờ. Theo đó, tại cuộc giao ban về an toàn thực phẩm vừa qua, Chính phủ yêu cầu từ nay đến quý III/2012, tất cả các tỉnh, thành phố phải hoàn thành xây dựng Kế hoạch 4 năm về an toàn vệ sinh thực phẩm, giai đoạn 2011-2015. Từ đó xác định mục tiêu cụ thể của mỗi địa phương về công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Đây là cơ sở rất quan trọng để các địa phương quyết định giải pháp trọng điểm và phối hợp với các ban, ngành trong thực hiện mục tiêu quốc gia về an toàn thực phẩm giai đoạn 2015-2020.

Nhóm giải pháp thứ hai là: Chúng ta cần đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra an toàn thực phẩm. Trên cơ sở kinh nghiệm đã làm vừa qua để thực hiện sự phối hợp tốt hơn nữa, đặc biệt giữa các Bộ Công an, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn, Bộ Công Thương.

Nhóm giải pháp thứ ba là: Các bộ, ngành, địa phương cần đẩy mạnh nâng cao nhận thức chuyển đổi hành vi về an toàn thực phẩm và cụ thể hóa theo từng điều kiện địa phương. Đề nghị năm nay các địa phương tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp là rau an toàn và thực hiện cuộc vận động Nói không với sản xuất rau không an toàn để người dân đi chợ yên tâm; Không buôn bán dưới mọi hình thức những phụ gia thực phẩm bị cấm kinh doanh và không an toàn; Nói không với giết mổ không an toàn. Đề nghị Bộ Công Thương từ việc làm thí điểm mô hình chợ an toàn tại 6 tỉnh giáp biên giới, trong năm nay tiếp tục nhân rộng mô hình chợ an toàn; tăng cường lực lượng chuyên trách làm công tác an toàn thực phẩm, nhất là trong quản lý nhà nước, đặc biệt những người làm thanh tra; đồng thời thực hiện công bố xếp hạng Chỉ số an toàn thực phẩm cấp địa phương và quốc gia. Chúng ta coi trọng sức khỏe của người dân Việt Nam, đồng thời coi trọng sức khỏe người dân các nước mà Việt Nam xuất khẩu. Vừa qua, chúng ta bắt đầu triển khai cam kết là thực phẩm xuất khẩu vào Việt Nam phải được công bố xuất xứ hàng hóa và ngược lại hàng hóa Việt Nam cũng chấp nhận các quốc gia kiểm tra công khai xuất xứ hàng hóa. Theo Chiến lược quốc gia về an toàn thực phẩm, Việt Nam xác định, địa phương nào có dân số từ 2 triệu người trở lên phải có phòng thí nghiệm kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm; tỉnh nào ở biên giới phải có phòng thí nghiệm, cùng với làm tốt công tác vận động đăng ký sản xuất an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế.

* PV: Trân trọng cảm ơn Phó Thủ tướng./.
Nhật Minh (thực hiện)
Xem thêm →

Mỹ và Nga thiết lập đường dây nóng cho các cuộc tấn công không gian mạng

0 nhận xét
Trung tâm giảm thiểu thảm họa hạt nhân (NRRC) được thành lập năm 1988 bởi Bộ Ngoại giao Mỹ đã cung cấp một đường dây trực tiếp liên lạc giữa Mỹ và Nga. Nó được thiết kế để ngăn chặn những hiểu lầm giữa hai cường quốc hạt nhân trong thời kì chiến tranh lạnh. Tuy nhiên giờ đây tình hình đang thay đổi,an ninh mạng đang trở nên rất nóng đặc biệt giữa các cường quốc bởi các cuộc tấn công xuyên quốc gia diễn ra gần như hàng ngày. Mới đây NRRC đã cung cấp thêm một kênh liên lạc mới cho việc trao đổi thông tin về các cuộc tấn công không gian mạng.


Các kênh liên lạc an toàn này sẽ cho phép hai quốc gia nắm rõ tình hình các cuộc tấn công mạng giữa hai nước để tránh tình trạng tấn công leo thang, tuy vậy chỉ có những cuộc tấn công nhằm vào chính phủ hai nước mới thuộc nhiệm vụ của NRRC. Ý tưởng này ban đầu cho phép một kênh liên lạc song phương giữa ba nước Mỹ,Nga,Trung Quốc nhưng việc đàm phán với Trung Quốc diễn ra chậm chạp và có vẻ Trung Quốc không mặn mà lắm. Hiện tại các thỏa thuận giữa Mỹ và Nga đã sẵn sàng và sẽ được hoàn tất trong vài tuần tới.

Theo: TheVerge
btahdvnbits@HDVNbits
Xem thêm →

Bộ trưởng Đinh La Thăng nhận lỗi với dân

0 nhận xét
Sau khi bị hàng loạt đại biểu chất vấn chuyện thu phí đường bộ, Bộ trưởng GTVT khẳng định không đi ngược lợi ích người dân, đồng thời nhận lỗi về chất lượng công trình.

Bộ trưởng Đinh La Thăng: Dân ủng hộ mới thu phí

Trong phiên chất vấn sáng 24/4, Bộ trưởng Đinh La Thăng và Thứ trưởng Tài chính Nguyễn Thị Minh đều cho rằng quỹ bảo trì đường bộ là cần thiết để có kinh phí duy tu, bảo dưỡng hạ tầng giao thông. Đến buổi chiều, Chủ nhiệm UB Pháp luật Phan Trung Lý đọc to tin nhắn của một cử tri gửi ông nhờ chuyển đến Bộ trưởng Thăng:

“Sao không bắt những chủ đầu tư làm cầu, đường kém chất lượng để hư hỏng tự bỏ tiền ra sửa, mà lại thu tiền của dân? Dân khổ quá rồi, đừng thu thêm phí nữa!”

ĐB Phùng Văn Hùng, Ủy viên UB Kinh tế QH cũng chỉ ra một loạt vướng mắc sẽ nảy sinh khi thu phí: phí cao khiến dân ngại mua xe, nhà sản xuất có hạ giá cũng không bán được, thuế nộp vào ngân sách giảm; người dân dùng nhiều loại ô tô, mới, xịn cũng có mà cũ, rẻ cũng có, đều phải nộp phí như nhau.

Như Phó Chủ tịch UB TƯ MTTQ Việt Nam Hà Thị Liên nói thì “có gia đình chắt bóp mới mua được một cái ôtô ‘còi’ mà mỗi năm nộp phí 20-50 triệu đồng, số tiền không nhỏ, sẽ rất khó khăn”.

ĐB Dương Trung Quốc thì thắc mắc trong khi số lượng ô tô tăng lên là một hướng đúng, cần khuyến khích thì lại thu phí để hạn chế.

Ông Phùng Văn Hùng nhận định nếu ô tô tăng dẫn đến các vấn đề giao thông thì là do quy hoạch, quản lý kém, “là lỗi của nhà nước chứ đâu phải lỗi của dân, xe mua về đã chịu thuế cao, giờ lại gánh thêm phí”.

Ông Hùng cảm thấy Bộ GTVT và các bên liên quan “chưa cân nhắc thực sự kỹ lưỡng” khi xây dựng chính sách này.

Bộ trưởng Đinh La Thăng giải trình rằng tất cả các giải pháp Bộ GTVT đang triển khai là để thực hiện các nghị quyết của Đảng và Chính phủ. Ông Thăng dẫn một loạt nghị quyết từ năm 2002 đến nay, cũng như nghị quyết của QH đồng tình với các giải pháp giảm thiểu tai nạn và ùn tắc giao thông mà Chính phủ báo cáo.

Tuy nhiên, ông Thăng nhấn mạnh tất cả mới chỉ là chuẩn bị, việc thực hiện phải đúng quy trình, quy phạm pháp luật cũng như phải đảm bảo sự đồng thuận của nhân dân. “Các văn bản đưa ra phải được lấy ý kiến người dân, dân đồng tình ủng hộ mới triển khai thực hiện”.

“Bộ GTVT không làm gì trái với quy định pháp luật, cũng như không đi trái lại nguyện vọng chính đáng và lợi ích của người dân”, Bộ trưởng Đinh La Thăng khẳng định.

Nhận lỗi trước dân về chất lượng công trình


ĐBQH Dương Trung Quốc

Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam Phạm Quốc Anh lấy tình trạng xuống cấp của mặt cầu Thăng Long để đặt câu hỏi về trách nhiệm quản lý chất lượng công trình giao thông của Bộ GTVT.

“Cầu, đường do nước ngoài làm từ những năm 1960 đến nay vẫn tốt, sao cầu, đường ta làm mới vài năm đã xuống cấp trầm trọng?”, ông Quốc Anh nhận định chất lượng công trình giao thông đã trở thành “đại vấn đề”, không khắc phục được thì “thu bao nhiêu phí bảo trì cũng vô ích”.

Ông Nguyễn Thanh Hồng, ủy viên UB Quốc phòng - An ninh QH, chỉ ra tình trạng các công trình giao thông thi công không đảm bảo các yêu cầu an toàn, dẫn đến những tai nạn thương tâm và tâm lý bức xúc trong dư luận.

Trả lời vấn đề này, trước hết Bộ trưởng Thăng cung cấp thông tin về tình hình sửa chữa cầu Thăng Long: cây cầu nằm trong 5 công trình lớn qua kiểm tra tổng thể chất lượng có phát hiện vấn đề. Nguyên nhân sơ bộ xác định là do công nghệ và vật liệu thi công thiếu đồng bộ.

Ông Thăng cho biết Bộ đang tìm mọi biện pháp để khắc phục, nhưng nhận định đây là vấn đề kỹ thuật khó, nan giải. Bộ GTVT “xin phép” tiếp tục nghiên cứu để sớm tìm cách xử lý.

Bộ trưởng Thăng thừa nhận chất lượng công trình giao thông đang là vấn đề bức xúc, Bộ GTVT đã nhận thức được tồn tại này, đã lấy hai năm liên tiếp từ 2011 làm Năm chất lượng công trình giao thông.

“Tôi thay mặt Bộ GTVT nhận lỗi trước nhân dân là còn để tình trạng tiến độ công trình chậm, chất lượng công trình chưa đảm bảo theo yêu cầu”, ông Thăng nói. “Chúng tôi đang từng bước khắc phục để sử dụng tiền ngân sách nhà nước, tiền nhân dân đóng góp vào đúng chỗ”.

Phiên giải trình của Bộ trưởng Đinh La Thăng trước UB Pháp luật QH đã có 14 ĐB đặt 40 câu hỏi. Ông Thăng và đại diện các cơ quan liên quan đã trả lời hết, tuy còn nhiều câu chưa rõ ràng như người chủ trì, Chủ nhiệm UB Pháp luật Phan Trung Lý, nhận định.

Có ý kiến nhận xét “vấn đề gì Bộ trưởng cũng nói đang xây dựng đề án”, song theo ông Lý, các vấn đề của ngành giao thông không thể giải quyết ngày một ngày hai, hay một mình Bộ GTVT, một mình Bộ trưởng Thăng có thể giải quyết, mà cần cả xã hội vào cuộc với những giải pháp đồng bộ, hiệu quả.

Chung Hoàng - Ảnh: Quang Khánh
Xem thêm →

TT Nguyễn Tấn Dũng nghe báo cáo về vụ cưỡng chế đất Văn Giang

0 nhận xét
Tại hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo sáng nay, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Hưng Yên Nguyễn Khắc Hào đã báo cáo Thủ tướng vụ cưỡng chế, thu hồi đất ở huyện Văn Giang.

-> Sự thật: TT Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Thanh Phượng và Ecopark

Theo ông Nguyễn Khắc Hào, trong 8 vụ việc khiếu kiện phức tạp kéo dài ở Hưng Yên hiện nay, có 6 vụ cá biệt dai dẳng, 2 vụ đông người. Đặc biệt và điển hình nhất là công dân 3 xã Cửu Cao, Phụng Công, Xuân Quan thường xuyên lôi kéo đông người lên tỉnh, các cơ quan TƯ để kiến nghị và tố cáo 9 nội dung liên quan đến dự án khu đô thị thương mại du lịch Văn Giang (Ecopark).

Ông Hào đã dành hơn 10 phút để báo cáo về vụ việc này với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.

VietNamNet trích đăng báo cáo này:

Dự án khu đô thị Văn Giang được phê duyệt và thực hiện từ năm 2004 theo công thức sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, trình tự thủ tuch thực hiện triển khai tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, được địa phương, các bộ ngành hữu quan của TƯ thẩm định kỹ lưỡng. Dự án có quy mô đầu tư, hạ tầng đồng bộ, hiện đại, từ dự án này, tạo vốn xây dựng tuyến đường liên tỉnh Hà Nội - Hưng Yên, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển KTXH không chỉ của Văn Giang mà còn cả của Hưng Yên và vùng Thủ đô Hà Nội. Chủ trương là đúng đắn, nhằm phát triển KTXH, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh Hưng Yên, phù hợp quy hoạch tổng thể phát triển KTXH tỉnh đến năm 2020, quy hoạch vùng tỉnh Hưng Yên đến 2020 và định hướng 2030, quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và quy hoạch vùng Thủ đô Hà Nội.


Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Hưng Yên Nguyễn Khắc Hào báo cáo Thủ tướng vụ cưỡng chế, thu hồi đất ở huyện Văn Giang. Ảnh: Chung Hoàng

Triển khai dự án, UBND tỉnh và các nhà đầu tư đã rất quan tâm áp dụng các chính sách đền bù hỗ trợ giải phóng mặt bằng và các biện pháp giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất, thực hiện theo đúng pháp luật, chế độ tại thời điểm. Dự án được thực hiện với cơ chế chính sách đền bù hỗ trợ cao nhất tại thời điểm trên địa bàn tỉnh và là dự án duy nhất được giao đất đền bù liền kề để chuyển đổi nghề nghiệp cho người dân có đất bị thu hồi.

Sau khi dự án được phê duyệt vào năm 2004, năm 2009 tỉnh mới bàn giao được đợt 1 cho nhà đầu tư 57,19 ha để làm đô thị và làm đường giao thông liên tỉnh, nhà đầu tư đã cơ bản hoàn thành đầu tư xây dựng các hạng mục công trình trên diện tích đất đã giao theo đúng quy hoạch được duyệt và phát huy hiệu quả. Đến nay đã có 3852/4876 hộ của 3 xã đã nhận tiền đền bù hỗ trợ, chiếm 79%. Còn 1024 hộ chưa nhận, bằng 21%. Tuy vậy, đến nay đã hơn 8 năm, tỉnh vẫn chưa hoàn thành việc chuyển giao đất cho nhà đầu tư, do người dân khiếu kiện liên tục, tụ tập đông người, lôi kéo kích động, cản trở, không hợp tác, gây nên tình hình phức tạp kéo dài ở 3 xã của huyện Văn Giang trong năm qua, ảnh hưởng tới sản xuất, đời sống của nhân dân.

Tôi xin báo cáo chi tiết thêm về việc ngày 24/4/2012 vừa qua đã hỗ trợ thi công và cưỡng chế giải phóng mặt bằng để bàn giao đất cho dự án.

Diện tích đất canh tác xã Xuân Quang là 294,6ha, diện tích đất thu hồi để triển khai dự án 129,ha, 107ha đất nông nghiệp, chiếm 36,32% diện tích đất canh tác. Đợt 1 đã bàn giao 57,19ha và vừa rồi bàn giao 72ha. Tổng số hộ đã nhận tiền đền bù hỗ trợ và tự nguyện bàn giao đất là 1554/1720 hộ, chiếm 95,5%. Còn lại chỉ còn 5,8ha của 166 hộ chưa nhận tiền đền bù hỗ trợ, chiếm 4,5% phải tiến hành cưỡng chế. Số hộ trên vẫn còn diện tích đất canh tác chứ không phải thu hồi toàn bộ.

Sau gần 8 năm, các cấp các ngành của tỉnh đã tập trung xem xét giải quyết thoả đáng những kiến nghị chính đáng của người dân, đồng thời trả lời những tố cáo sai sự thật, không có căn cứ. Hưng Yên đã kiên trì tuyên truyền vận động thuyết phục từng hộ dân. Gần đây sau nhiều tháng rà soát các trình tự, thủ tục pháp lý của dự án, các ngành chức năng chuẩn bị kỹ lưỡng, chặt chẽ các phương án đảm bảo an toàn, ngày 4-5/4 vừa qua, UBND huyện Văn Giang đã ra quyết định cưỡng chế đối với 5,8 ha của 166 hộ dân của xã Xuân Quan.

Chúng tôi nhận thức rằng khi đã có chủ trương đúng, hiệu quả KTXH cao, đúng các quy định của pháp luật, được đông đảo nhân dân đồng tình ủng hộ, thì không thể vì một số người chống đối mà không triển khai thực hiện chủ trương đó.

Ngày 22/4 vừa qua, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh, các cơ quan chức năng của tỉnh và sự hỗ trợ tích cực của Bộ Công an, các lực lượng hỗ trợ thi công và cưỡng chế của huyện Văn Giang đã thực hiện tốt các phương án đề ra, đảm bảo an toàn về người và tài sản.

Sau cưỡng chế, tình hình nhân dân 3 xã ổn định, nhiều hộ dân không nhận tiền hỗ trợ đền bù đã nhận ra sai lầm vì nghe nhóm chống đối xúi giục và kích động.

Từ việc khiếu kiện đông người của một bộ phận người dân ở 3 xã trong vùng dự án ở Văn Giang đến việc tổ chức cưỡng chế vừa rồi, chúng tôi xin rút ra một số nhận thức và bài học bước đầu trong lãnh đạo chỉ đạo và công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo.

Thứ nhất là, phát huy dân chủ phải đi liền với kỷ cương pháp luật, trong từng vụ việc cụ thể cần được xem xét thấu đáo, có lý có tình, nhất là phải đúng quy định của pháp luật. Những người lợi dụng dân chủ, móc nối với những phần tử tiêu cực, bất mãn, phản động trong nước và nước ngoài, cố tình chống phá chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, kìm hãm sự phát triển, thì nhất định phải có biện pháp xử lý kiên quyết.

Trong vụ việc ở Văn Giang, có sự móc nối chặt chẽ với những phần tử chống đối ở nước ngoài. Các thông tin thậm chí còn được tường thuật tại chỗ, từng giờ, để tuyên truyền xuyên tạc, dàn dựng những video clip giả để vu khống, bôi nhọ chính quyền.

Thứ hai, về phía tỉnh, có sự chỉ đạo tập trung thống nhất cao của các cấp uỷ đảng, chính quyền, MTTQ, các đoàn thể. Tăng cường công tác tiếp công dân, coi trọng tuyên truyền, vận động nhân dân và không nóng vội. Chủ tịch UBND tỉnh đã tổ chức đối thoại trực tiếp với người dân 3 xã, quan tâm giải quyết các quyền và lợi ích chính đáng của người dân, theo đúng các quy định của pháp luật. Phối hợp chặt chẽ với báo chí và các cơ quan tuyên truyền. Trước khi thực hiện các biện pháp hỗ trợ thi công, cưỡng chế, Hưng Yên tổ chức họp báo với 21 cơ quan báo chí TƯ và tỉnh. Trong quá trình thực hiện, đảm bảo đúng trình tự pháp luật và tổ chức rà soát kỹ lưỡng các trình tự thủ tục trước khi thực hiện các biện pháp hỗ trợ thi công, cưỡng chế, đồng thời có những giải pháp chặt chẽ đảm bảo an toàn cho người và tài sản.

Chung Hoàng ghi
Xem thêm →

TT Nguyễn Tấn Dũng chủ trì Hội nghị trực tuyến về giải quyết khiếu nại, tố cáo

0 nhận xét
Ngày 2/5, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chủ trì Hội nghị Hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Báo cáo tình hình, kết quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo từ năm 2008 – 2011 do Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh trình bày tại Hội nghị cho thấy, trách nhiệm trong chỉ đạo, lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được nâng lên; công tác hoàn thiện cơ chế, chính sách góp phần hạn chế phát sinh khiếu kiện mới được quan tâm; công tác tiếp dân ở các tỉnh, thành phố đã được củng cố thêm một bước; giải quyết được khối lượng lớn vụ việc mới phát sinh và nhiều vụ đông người, phức tạp; việc phối hợp giữa các cơ quan ở Trung ương và địa phương được quan tâm hơn, nhất là xử lý các tình huống phức tạp phát sinh trong khiếu nại, tố cáo.


Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo còn những hạn chế, yếu kém như, một số địa phương chưa tổ chức tốt việc tiếp công dân, chưa gắn công tác tiếp công dân với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là ở cấp huyện; nhiều vụ việc giải quyết còn chậm; một số vụ việc giải quyết không đúng chính sách, pháp luật và thực tế; nhiều địa phương chỉ chú trọng đến việc giải quyết hết thẩm quyền mà chưa quan tâm đến giải quyết dứt điểm; còn hiện tượng né tránh, đùn đẩy, thấy sai phạm nhưng chưa có biện pháp khắc phục…

Trong thời gian từ năm 2008 – 2011, các cơ quan hành chính nhà nước đã tiếp trên 1.571.500 lượt người đến khiếu nại, tố cáo và tiếp nhận, xử lý 672.990 đơn thư. Năm 2011 so với năm 2008, số vụ việc tăng 26,4%; đoàn đông người 64,5%.

Cụ thể, kết giải quyết khiếu nại theo thầm quyền; các cơ quan chức năng đã giải quyết 257.419/290.565 vụ việc khiếu nại (đạt trên 88%). Qua phân tích cho thấy, số vụ khiếu nại đúng chiếm 19,8%; số vụ khiếu nại đúng, có sai chiếm 28%; khiếu nại sai chiếm 52,2%.

Về giải quyết tố cáo, đã giải quyết 33.160/39.107 vụ việc tố cáo (đạt trên 84%). Qua phân tích cho thấy, có 16,2% đơn tố cáo đúng, 29,6% đơn tố cáo có đúng, có sai; 54,2% đơn tố cáo sai.

Qua công tác giải quyết khiếu nại tố cáo, đã thu hồi về cho nhà nước gần 1.026 tỷ đồng, 1.241 ha đất; khôi phục quyền lợi cho 6.659 công dân với số tiền 595 tỷ đồng, 936 ha đất; kiến nghị xử lý hành chính 2.951 người; chuyển cơ quan điều tra 239 vụ, 382 người.

Về giải quyết các vụ việc tồn động, bức xúc, kéo dài; các Bộ, ngành, địa phương đã kiểm tra, rà soát, giải quyết dứt điểm được 1.052 vụ việc tồn động, bức xúc, kéo dài (đạt 66,7%). Hiện còn lại 528 vụ việc đang được tiếp tục xem xét, giải quyết.

Theo đánh giá, về tính chất, mức độ phức tạp, mặc dù so với những năm 2006-2007 tình hình khiếu nại tố cáo từ năm 2008 – 2011 ở một số địa bàn có giảm, nhưng về tổng quan, tình hình khiếu nại tố cáo diễn biến phức tạp và bức xúc ở nhiều nơi. Có lúc, có nơi đặc biệt phức tạp, gay gắt, biểu hiện rõ nhất là số đoàn đông người tăng mạnh, thái độ công dân đi khiếu kiện thiếu kiềm chế, khiếu nại tố cáo vượt cấp lên Trung ương gia tăng, tình trạng đơn thư gửi tràn lan mang tính phổ biến. Có nhiều vụ việc phát sinh từ những năm trước, đã được xem xét, giải quyết nhưng công dân vẫn khiếu kiện kéo dài, nhất là các vụ việc khiếu nại về thu hồi đất, đòi lại đất cũ, tranh chấp đất đai…

Đồng thời, có hiện tượng những người, nhóm người khiếu nại “liên kết” với nhau để khiếu nại đông người. Một số trường hợp có sự xúi giục, kính động của các thế lực thù địch nhằm lôi kéo những người đi khiếu nại liên kết đông người có những hành vi quá khích, gây rối.

Tình hình khiếu nại tố cáo nêu trên đã ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và tiềm ẩn những nguy cơ làm mất ổn định chính trị-xã hội tại một số địa phương trong một số thời điểm.

Nội dung khiếu nại, tố cáo của công dân chủ yếu liên quan đến đất đai (chiếm 70%), trong đó nhiều nhất là khiếu nại việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế-xã hội; khiếu nại đòi đất cũ, tranh chấp đất đai trong nhân dân qua các thời kỳ nhưng chưa được giải quyết dứt điểm; khiếu nại đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, đòi nhà thuộc diện thực hiện các chính sách về quản lý nhà…

Nguyên nhân dẫn đến khiếu nại tố cáo có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó về khách quan có, chính sách bồi thường cho người có đất bị thu hồi còn nhiều bất cập (giá bồi thường thấp, hay thay đổi, thiếu nhất quán…); có sự chênh lệch quá lớn giữa giá đất bồi thường so với giá trị trường hoặc giá nhà đầu tư bán; ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế nên đòi hỏi quá đáng hoặc bị các phần tử xấu lợi dụng kích động khiếu kiện kéo dài…  về chủ quan, công tác quản lý đất đai còn sơ hở, lòng lẻo; nhiều cán bộ lợi dụng tham nhũng, tiêu cực nhưng không bị xử lý nghiêm minh; chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động thuyết phục, giải thích, hài hòa ngay từ cơ sở; chưa tập trung giải quyết khiếu kiện ngay từ đầu; công tác giám sát của cơ quan dân cử, của các tổ chức chính trị xã hội đối với công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo chưa thường xuyên;…

Về phương hướng, nhiệm vụ công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời gian tới, Thanh tra Chính phủ xác định nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian tới là tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo; chủ động xử lý các nhiệm vụ về khiếu nại, tố cáo; kiểm soát tốt tình hình khiếu nại, tố cáo, không để xảy ra “điểm nóng”; đối với các vụ việc phát sinh mới tập trung giải quyết đạt tỷ lệ trên 85%.

Cùng với đó là tiếp tục rà soát, giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng, bức xúc, kéo dài.

Từ nhiệm vụ nêu trên, Thanh tra Chính phủ đề ra 6 giải pháp là tăng cường công tác quản lý đất đai nhằm hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo trên lĩnh vực này; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; củng cố, kiện toàn tổ chức, hoạt động của các cơ quan làm nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo; đảm bảo an ninh, trật tự trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; tăng cường sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong giải quyết khiếu nại, tố cáo và cuối cùng là tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại tố cáo để nâng cao hiểu biết pháp luật về khiếu nại, tố cáo của cán bộ, nhân dân.

Tại Hội nghị, Thanh tra Chính phủ cũng kiến nghị Bộ Chính trị chỉ đạo tổ chức tổng kết việc thực hiện Kết luận 130-TB/TW ngày 10/01/2008 của Bộ Chính trị; các cơ quan có thẩm quyền đẩy nhanh việc sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật về đất đai; tiếp tục thực hiện Đề án “Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khiếu nại, tố cáo cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn”; Quốc hội cần sớm ban hành Luật về Tiếp công dân, Luật về biểu tình làm cơ sở đấu tranh, xử lý những trường hợp lợi dụng khiếu nại, tố cáo gây rối…Hội nghị sẽ diễn ra trong hết ngày 2/5./.

Theo chinhphu.vn
Xem thêm →

Ngày 'Quốc hận' và trải lòng của một người bên kia chiến tuyến

0 nhận xét
Không thể quên thù hận đã là ngu xuẩn lắm rồi, nhưng ngu xuẩn hơn nữa nếu chúng ta lại truyền lại sự thù hận cho thế hệ sau để chúng tiếp nối sự thù hận mà chúng ta không thể quên được…

Nhân ngày Thống nhất Đất nước 30/4, REDS.VN xin giới thiệu với độc giả bài viết của Giáo sư Trần Chung Ngọc (cựu chiến binh VNCH, hiện đang định cư tại Mỹ), bày tỏ những suy tư của ông vể cái ngày lịch sử đầy tranh cãi trong cộng đồng người Việt ở xứ người.

Bài viết đã có sự biên tập nội dung của Ban quản trị REDS.VN. Độc giả có thể xem bài gốc trên trang SACHHIEM.NET với tựa đề “Ba mươi tháng Tư và tôi”.


“Nếu một người vẫn không thể quên thù hận, há chẳng ngu xuẩn lắm sao?” Đó là lời của Cổ Long trong đoạnkết của truyện kiếm hiệp “Cửu Nguyệt Ưng Phi”

Chiến tranh Việt Nam đã chấm gần 4 thập kỷ rồi, chiều dài của hơn một thế hệ. Tôi đồng ý với ông Cổ Long rằng đến bây giờ mà chúng ta không thể quên được thù hận thì quả thật là ngu xuẩn. Ở đây tôi muốn nói đến mối thù hận bất kể từ phía nào. Không thể quên thù hận đã là ngu xuẩn lắm rồi, nhưng ngu xuẩn hơn nữa nếu chúng ta lại truyền lại sự thù hận cho thế hệ sau để chúng tiếp nối sự thù hận mà chúng ta không thể quên được.

Trước hết tôi cần phải nói chút ít về tôi, dù cái tôi thật đáng ghét. Cá nhân tôi là một sĩ quan, xuất thân từ Khóa I Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, đã phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong hơn 8 năm, đã cầm súng chống Cộng ở tiền tuyến, từ Quảng Bình (Tiểu đoàn 12) trước 1954, đến Qui Nhơn (Sư đoàn 22) và Kontum (Biệt khu 24) sau 1954. Và sau khi giải ngũ tôi cũng đã phục vụ trong ngành giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa cho đến ngày chót.

Vậy vào những thời đó, tất nhiên không ít thì nhiều tôi cũng đã chống Cộng, nhất là tôi đã đọc về những tội ác của Cộng sản đối với người dân, về cuộc cải cách ruộng đất, về Tết Mậu Thân v..v…trong những tài liệu của miền Nam và của Mỹ. Và tôi đã chạy trốn Cộng sản sang Mỹ vào cuối tháng Tư năm 1975. Nhưng kết cục của cuộc chiến đã đưa đến cho tôi một thắc mắc và ấm ức. Thắc mắc và ấm ức đó là:

“Miền Nam có hơn một triệu quân, một thời cộng với hơn nửa triệu quân Mỹ, với đầy đủ vũ khí, đạn dược, và có ưu thế tuyệt đối về máy bay chiến đấu, về B52 để trải thảm bom từ trên thượng tầng không khí, xe tăng, tàu chiến, trọng pháo, truyền tin và cả thuốc khai quang Agent Orange để cho Việt Cộng không còn chỗ ẩn núp v..v.. nhưng tại sao vẫn không thắng nổi đối phương để rồi Mỹ phải tìm cách Việt Nam hóa cuộc chiến, rồi “tháo chạy” [từ của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng], và cuối cùng, Việt Cộng vẫn “cưỡng chiếm” [từ của báo chí chống Cộng hải ngoại] được miền Nam? Vậy ngoài yếu tố quân sự, những yếu tố nào đã quyết định cuộc chiến?

Phải chăng phe Quốc Gia của chúng ta có vấn đề về chính nghĩa, về chủ quyền? Phải chăng quân dân miền Nam không tích cực chống Cộng? Hay phải chăng yếu tố quyết định là truyền thống yêu nước của người dân Việt Nam? Thực ra thì Quốc Gia và Cộng sản bên nào có Chính Nghĩa? Bên nào hợp lòng dân và được dân ủng hộ? Ý chí và khả năng chiến đấu của binh sĩ hai bên ra sao? Khả năng chỉ huy của các cấp lãnh đạo? Và còn những gì gì nữa?”

Tại sao chúng ta lại thua? Đó là niềm ấm ức đã ám ảnh đầu óc tôi trong vài năm đầu sống ở Mỹ sau 1975. Trong thời gian này, vì phải bắt đầu lại cuộc sống từ số không nên không có thì giờ tìm hiểu, tôi vẫn không giải đáp được thắc mắc trên. Nhưng thắc mắc trên cứ ám ảnh đầu óc tôi, cho nên khi đời sống kinh tế gia đình đã ổn định, tôi đã để thì giờ tìm hiểu và đọc rất nhiều sách và tài liệu viết về cuộc chiến ở Việt Nam, phần lớn là sách Mỹ, sách Pháp, và vài ba cuốn sách Việt, thí dụ như “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” của Đỗ Mậu; “9 Năm Máu Lửa Dưới Chính Quyền Ngô Đình Diệm” của Nguyệt Đam và Thần Phong; “Đảng Cần Lao” của Chu Bằng Lĩnh”; Luận Án Tiến Sĩ “Giáo Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam (1857-1914)” [Christianisme et Colonialisme au Viet Nam, 1857-1914], Đại Học Paris, 1969, của Cao Huy Thuần; “Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” của Hồ Sĩ Khuê v…v…

Bài “Đầu Hàng” của Vân Xưa trong cuốn của Hồ Sĩ Khuê là bài tôi thích nhất. Xin đừng hiểu lầm tôi thích là vì VNCH “đầu hàng”, mà vì bài viết phân tích tình hình khá hay và đầy tình người. Lẽ dĩ nhiên tôi cũng có những kinh nghiệm bản thân về Cộng sản cũng như Quốc Gia trong thời chiến, vì tôi là Sĩ Quan “Tác Động Tinh Thần”, sau đổi thành “Chiến Tranh Tâm Lý”, của Tiểu Đoàn 12. Tôi cũng đã chứng kiến cuộc đảo chính hụt của Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông v..v… cũng như cuộc oanh tạc Dinh Độc Lập của hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử. Và sau cùng là cuộc đảo chánh năm 1963 của Dương Văn Minh v… v… Tôi cũng đã nhìn thấy những khuôn mặt sáng sủa, trẻ trung, đầy tương lai trong các lớp học tôi dạy, từ Trung Học đến Đại Học, nhưng khó mà có thể có tương lai vì trước sau gì các em cũng bị lôi cuốn vào cuộc chiến tương tàn.


Ngày nay, lịch sử đã rõ ràng. Với những kiến thức mới về cuộc chiến thì chúng ta đã rõ, cuộc chiến trước 1954 là cuộc chiến chống xâm lăng, xâm lăng của thực dân Pháp toan tính tái lập nền đô hộ trên đầu dân Việt Nam, với sự hỗ trợ về quân cụ, vũ khí rất đáng kể của đế quốc Mỹ.

Ngày 14/8/1945, Tổng Thống Pháp De Gaulle bổ nhiệm Tướng Leclerc làm Tổng Chỉ Huy lực lượng ở Đông Dương và chỉ định Thierry d’Argenlieu làm Cao Ủy để cắm lại lá cờ tam tài của chúng ta ở đó (pour y replanter notre drapeau). Và Mỹ đã giúp hơn 80% chiến phí cho Pháp trong mục đích thực dân này. Còn cuộc chiến hậu Geneva là cuộc chiến chống xâm lăng của Mỹ. Đây là kết luận của các học giả Tây phương, xét theo những sự kiện lịch sử chứ không xét theo cảm tính phe phái.

Thật vậy, Thứ Trưởng Ngoại Giao Mỹ, Walter Bedell Smith xác định trong bản Tuyên Ngôn tại Washington D.C. về Hiệp Định Geneva như sau:

“Trong trường hợp những quốc gia nay bị chia đôi ngoài ý muốn, chúng ta sẽ tiếp tục tìm kiếm giải pháp thống nhất qua bầu cử tự do, giám sát bởi Liên Hiệp Quốc để bảo đảm là bầu cử được thi hành nghiêm chỉnh” và “Hoa Kỳ sẽ tự kiềm chế, không đe dọa hay dùng võ lực để phá những sự Thỏa Hiệp”

Xác định như vậy nhưng Mỹ đã nuốt lời hứa và dùng võ lực để can thiệp ngay vào nội bộ Việt Nam.., dùng tay sai Ngô Đình Diệm để phá sự thống nhất của đất nước qua bầu cử tự do, rồi chỉ đạo cuộc chiến và phạm rất nhiều tội ác ở Việt Nam. Trong cuốn The United States In Vietnam: An Analysis In Depth Of The History Of America’s Involvement In Vietnam, hai Giáo sư đại học Cornell, George McTurnan Kahin và John W. Lewis, viết ở trang 59:

“Tuy Hoa Kỳ nói rằng “sẽ tự kiềm chế, không đe dọa hay dùng võ lực để phá những sự Thỏa Hiệp” nhưng điều hiển nhiên chúng ta thấy ngay sau đó là Hoa Kỳ đã sửa soạn dùng mọi phương cách khác để ủng hộ chế độ Sai Gòn [do Mỹ dựng lên] trong việc không tôn trọng những điều khoản trong Thỏa Hiệp”

Sự kiện là, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về để chống Cộng cho Mỹ ở Nam Việt Nam, và đơn phương từ chối không thi hành khoản tổng tuyển cử tự do trên toàn đất nước vào năm 1956 trong Hiệp Định. Tại sao? Vì Tổng Thống Eisenhower của Mỹ đã nhận định, nếu có một cuộc tổng tuyển cử tự do vào năm 1956 thì ông Hồ Chí Minh sẽ được ít nhất là 80% số phiếu. Vào thời đó, với uy tín của ông Hồ và Việt Minh sau trận Điện Biên Phủ, Việt Minh không cần phải tổ chức một cuộc bầu cử gian lận như Ngô Đình Diệm đã làm ở miền Nam với số phiếu ở Sài Gòn nhiều hơn số cử tri.

Tưởng chúng ta không nên quên là ngay từ sau Hiệp Định đình chiến 1954, Mỹ đã gửi Lansdale ra ngoài Bắc để phá hoại, tuyên truyền, và cổ võ giáo dân Công giáo di cư vào Nam với những khẩu hiệu như “Chúa đã vào Nam” và “Đức Mẹ đã di cư vào Nam” v..v. Vì vậy khoảng 700 ngàn Giáo dân Công giáo đã cùng với các “Chúa thứ hai” của họ ào ào kéo vào Nam.

Còn nữa, trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ (The Vietnam War and American Culture, Columbia University Press, New York, 1991), hai Giáo sư ở đại học Iowa, John Carlos Rowe và Rick Berg, viết, trang 28-29:

Tưởng cũng nên nhớ lại vài sự kiện. Mỹ đã dính sâu vào nỗ lực của Pháp để tái chiếm thuộc địa cũ của họ, biết rằng kẻ thù là phong trào quốc gia của Việt Nam. Số tử vong vào khoảng nửa triệu. Khi Pháp rút lui, Mỹ lập tức dấn thân vào việc phá hoại Hiệp Định Genève năm 1954, dựng lên ở miền Nam một chế độ khủng bố, cho đến năm 1961, giết có lẽ khoảng 70,000 “Việt Cộng”, gây nên phong trào kháng chiến mà từ 1959 được sự ủng hộ của nửa miền Bắc tạm thời chia đôi bởi Hiệp Định Genève mà Mỹ phá ngầm. Trong những năm 1961-62, Tổng thống Kennedy phát động cuộc tấn công thẳng vào vùng quê Nam Việt Nam với những cuộc thả bom trải rộng, thuốc khai quang trong một chương trình được thiết kế để lùa hàng triệu người dân vào những trại (ấp chiến lược?) nơi đây họ được bảo vệ bởi những lính gác, giây thép gai, khỏi quân du kích mà Mỹ thừa nhận rằng được dân ủng hộ. Mỹ khẳng định là đã được mời đến, nhưng như tờ London Economist đã nhận định chính xác, “một kẻ xâm lăng là một kẻ xâm lăng trừ phi được mời bởi một chính phủ hợp pháp”. Mỹ chưa bao giờ coi những chính phủ tay sai mình dựng lên là có quyền hợp pháp như vậy, và thật ra Mỹ thường thay đổi những chính phủ này khi họ không có đủ thích thú trước sự tấn công của Mỹ hay tìm kiếm một sự dàn xếp trung lập được mọi phía ủng hộ nhưng bị coi là nguy hiểm cho những kẻ xâm lăng, vì như vậy là phá ngầm căn bản cuộc chiến của Mỹ chống Nam Việt Nam. Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân loại trên khắp Đông Dương.

Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt, vậy mà 27 năm sau, Daniel Ellsberg còn viết trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers, Viking, 2002, p.255:

“Theo tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lăng của Mỹ”.

Năm 2006, Bác Sĩ Allen Hassan, một Bác sĩ đã phục vụ tại Việt Nam, đã viết cuốn “Failure To Atone” mà bản dịch tiếng Việt của Nhà Xuất Bản Trẻ dịch là “Không Thể Chuộc Lỗi” (Đúng ra, dịch đúng nghĩa phải là “tội”, tội ác, chứ không phải “lỗi”, lỗi lầm) nói về những tội ác của quân đội Mỹ ở Việt Nam. Sau đây là vài lời giới thiệu trong bản tiếng Việt của Nhà Xuất Bản Trẻ mà tôi mua được ở Việt Nam nhân chuyến cùng con cháu về thăm quê hương năm 2007:

Tại hội trường 8 Hội chợ sách Quốc tế Frankfurt ở Đức năm 2006, giữa các khu vự trưng bày sách rộng lớn và không khí giao dịch bản quyền náo nhiệt của các tập đoàn xuất bản hàng đầu thế giới là một gian hàng nhỏ với một điểm đặc biệt có một không hai: Gian hàng chỉ trưng bày và giao dịch bản quyền duy nhất một cuốn sách có tựa đề Failure To Atone – Không Thể Chuộc Lỗi (Tội) – với một poster lớn: “Nước Mỹ không thể chuộc lỗi về những gì đã gây ra trong cuộc chiến tranh Việt Nam! Sự thật chưa từng được tiết lộ của một bác sĩ tình nguyện người Mỹ tại Việt Nam”…

Khi chúng tôi hỏi tại sao lại lấy tên là Không Thể Chuộc Lỗi đặt cho cuốn sách, đại diện bản quyền của bác sĩ Allen Hassan trả lời:

“Mục đích của bác sĩ Allen Hassan khi viết cuốn sách này là muốn những người lính đã từng tham chiến tại Việt Nam và chính quyền Mỹ thật sự hiểu rõ những gì mà nước Mỹ đã gây ra cho người dân Việt Nam và lớn hơn rất nhiều những gì mà người Mỹ từng nghĩ. Nước Mỹ nhớ rất kỹ những gì người khác gây cho họ nhưng lại quên rất nhanh những gì họ đã gây ra cho những người khác. Người chết không thể sống dậy, người tàn tật mãi mãi tàn tật, và nỗi đau mãi mãi là nỗi đau….Khi đọc xong cuốn sách này, mọi người sẽ hiểu bây giờ bất cứ làm việc gì, nước Mỹ cũng không thể chuộc lại lỗi của mình đối với người dân Việt Nam”.

Trong cuốn Không Thể Chuộc Lỗi, bác sĩ Hassan đã đề cập đến chất độc da cam, nhưng đặc biệt, trong ấn bản Việt ngữ, ông đã viết thêm một chương về những hậu quả và di chứng nặng nề của chất độc da cam mà quân đội Mỹ đã sử dụng tại Việt Nam. Mỹ đã sử dụng bao nhiêu chất độc da cam ở Việt Nam? Thượng Nghị Sĩ Mỹ Gaylor Nelson đã phát biều:

Nước Mỹ đã trút xuống Nam Việt Nam một lương hóa chất độc hại tương đương với mức trung bình cho mỗi đầu người, kể cả phụ nữ và trẻ em, là 6 pound (gần 3 kg).

Di hại to lớn của chất độc da cam ở Việt Nam là điều hiển nhiên, không ai có thể chối cãi. Nhưng nước Mỹ đã muối mặt phủ nhận trách nhiệm. Đáng lẽ sau cuộc chiến, Việt Nam phải đưa Mỹ ra Tòa Án Quốc tế Xử Các Tội Phạm Chiến Tranh nhưng có lẽ tự biết thân phận của một nước nhỏ, có kiện cũng chỉ là “con kiến đi kiện củ khoai”.

Chúng ta hãy đọc thêm vài đoạn trong bài “ Chủ Nghĩa Khủng Bố Và Diệt Chủng Dân Tộc Việt Nam Của Mỹ 1945-1975” (American Terrorism and Genocide of the Vietnamese People, 1945-1974):

Những tội phạm chiến tranh thuộc Thủy, Lục, Không quân Hoa Kỳ đã tàn sát 3 triệu người ở Việt Nam, trong rất nhiều nơi như Mỹ Lai. Hầu hết các nạn nhân là đàn bà và trẻ con.

CIA có ngay cả một chương trình khủng bố chính thức của quốc gia Mỹ ở Việt Nam, được biết là “Chiến Dịch Phụng Hoàng” hay “Kế Hoạch Phụng Hoàng”. [Kế hoạch Phụng Hoàng còn được biết dưới tên “Kế Hoạch Ám Sát” (Douglas Valentine, The Phoenix Program, p. 191: “Phoenix was labeled an Assassination Program”).] Qua Kế Hoạch Phụng Hoàng, nhiều trăm ngàn người đã bị tra tấn đến chết trong những “trung tâm thẩm vấn” trên khắp Nam Việt Nam. Những trung tâm tra tấn này được dựng lên bởi Mỹ rõ ràng cho mục đích đó. Phụ nữ luôn luôn bị hãm hiếp như là một phần của tra tấn trước khi bị giết. Khủng bố, hãm hiếp và giết người hàng loạt một cách đại qui mô trên khắp miền quê là chính sách của tập thể Lục Quân, Không Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Thủy Quân Hoa Kỳ. Cuộc tàn sát ở Mỹ Lai là một chiến dịch trong Kế Hoạch Phụng Hoàng.

Chính sách diệt chủng dân Việt Nam của Mỹ có nguồn gốc từ ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến.

Mỹ đã ủng hộ Pháp trong toan tính lấy lại quyền cai trị đẫm máu của thực dân Pháp ở Đông Nam Á.

John Kerry, Trung Úy Thủy Quân, lãnh tụ của những cựu quân nhân Mỹ ở Việt Nam chống chiến tranh, làm chứng trước Ủy Ban Ngoại Giao của Thượng Viện năm 1971: “Tôi muốn nói rằng vài tháng trước ở Detroit chúng tôi có một cuộc điều tra trong đó có 150 quân nhân đã được giải ngũ trong danh dự đã làm chứng cho những tội ác chiến tranh phạm ở Đông Nam Á. Họ nói những câu chuyện của thời đó là chính họ đã hãm hiếp, cắt tai, chặt đầu, kẹp giây điện từ những bộ máy truyền tin vào nhưng cơ quan sinh dục rồi quay điện, chặt chân tay, làm nổ tan xác, bắn chơi vào các thường dân, triệt hạ cả làng theo kiểu của Thành Cát Tư Hãn, bắn trâu bò, chó, làm trò chơi, đầu độc các kho lương thực và hầu như là tàn phá toàn diện miền quê Nam Việt Nam, ngoài sự tàn phá thông thường của chiến tranh và sự tàn phá thông thường và đặc biệt của những cuộc bỏ bom trên đất nước này”.

Quá nhiều “con em của chúng ta” đã phạm phải những tội ác cuồng dâm chống nhân loại. Lính Mỹ tra tấn tù binh. Lính Mỹ hiếp người qua đường hậu môn, hãm hiếp và bạo sát đàn bà và con gái. Lính Mỹ tàn sát toàn thể đàn ông, đàn bà, trẻ con trong nhiều làng – kể cả con nít - ở nhiều, nhiều nơi như Mỹ Lai và Thanh Phong.

[Thanh Phong là tên ngôi làng mà nguyên Thượng Nghị Sĩ Robert Kerrey, (không phải là John Kerry) đã chỉ huy một toán SEALS 7 người vào tàn sát 21 người đàn ông, đàn bà và trẻ con trong làng vào tháng 2, 1969. Vào căn nhà lá đầu tiên, toán này đã cắt cổ một ông lão, vợ ông ta và 3 đứa cháu.]

Lực Lượng Đặc Biệt dạy binh sĩ của mình thi hành nhiệm vụ ở Việt Nam phải dùng tra tấn như thế nào là một phần trong sự thẩm vấn.

Chiến dịch Phụng Hoàng nổi tiếng, do CIA dựng lên để quét sạch hạ tầng cơ sở của Việt Cộng, đã tra tấn những người bị tình nghi như sau:

- Quay điện vào các bộ phận sinh dục của nam và nữ.

- Cắm vào tai một cái đũa gỗ dài 15 cm rồi đập dần đũa vào óc cho đến khi nạn nhân chết.

- Những người bị tình nghi cũng bị ném từ trên trực thăng xuống để làm gương cho những người tình nghi quan trọng khác phải khai, tuy đây có thể coi như là sát nhân đối với nạn nhân bị ném, nhưng cũng là một hình thức tra tấn đối với những người khác.

- Vi phạm Quy Ước Geneva, Mỹ trao tù binh cho đồng minh Nam Việt Nam của họ biết rõ rằng nhưng người này sẽ bị tra tấn, viên chức Mỹ thường có mặt trong cuộc tra tấn.

Cương quyết thi hành dịch vụ diệt chủng, Không Quân Mỹ phát động chiến dịch “Rolling Thunder” tấn công dân Việt Nam năm 1964. Riêng cuộc tấn công này đã thả xuống đất nước nhỏ bé nhiều bom hơn là toàn thể số bom dùng trong Đệ Nhị Thế Chiến.

Trong 5 năm tiếp theo, nhiều trăm ngàn người dân Việt Nam, đàn ông, đàn bà, trẻ con bị nghiền nát và thiêu sống bởi những phi hành đoàn của Không Quân Mỹ. Đất nước Việt Nam phải chịu đựng 22 tấn thuốc nổ cho mỗi 1.6 km vuông. Nghĩa là 660 kg chất nổ mạnh cho mỗi người, đàn ông, đàn bà và trẻ con.

Trong 13 năm chiến tranh ác ôn của Mỹ chống dân tộc Việt Nam, tổng cộng là 8 triệu tấn bom (bom Napalm và bom chùm) và chất độc khai quang màu Cam đã thả trên đất nước – và ít ra là 3 triệu người đã bị tàn sát.

Cùng với lò nướng thịt thổ dân Mỹ, lò nướng thịt người Việt Nam của Mỹ đã xếp Mỹ xuống đáy của địa ngục – cùng với những công ty nổi tiếng như Nazi của Đức, chính quyền Công Giáo Ustashi ở Croatia, quân lực Nhật Bản, quân lực Thổ Nhĩ Kỳ, những đoàn quân bạo dâm chiến thắng của Tây Ban Nha, những đoàn quân Mông Cổ, La Mã và những con quỷ diệt chủng như trên.

Trong khi đó thì những người Mỹ ái quốc, kỳ thị chủng tộc tiếp tục sống cái gọi là đời sống “bình thường”, hoàn toàn lãnh đạm với cuộc tàn sát đẫm máu được thi hành nhân danh họ, ăn nhậu trên những miếng thịt bò tái và xem TV, chơi “golf” và đi dự những “parties” trong khi những đứa trẻ Việt Nam bị thiêu sống trong làng mạc của chúng bởi những tên phi công trời đánh của chúng ta, và vô số phụ nữ thường dân Việt Nam bị hãm hiếp tàn bạo và toàn thể các gia đình bị bắn chết bằng súng liên thanh bởi những binh sĩ trời đánh của chúng ta.

Không chỉ những con quỷ Nazi Đức mới phạm tội diệt chủng. Chính quyền ác ôn và quân lực Mỹ của chúng ta cũng phạm tội diệt chủng. Hằng triệu người. Và tuyệt đại đa số nạn nhân là người dân thường không có ai bảo vệ. [Vậy mà có những người chống Cộng hải ngoại đòi đưa Cộng Sản ra Tòa Án Mỹ hay Quốc tế Xử Tội Phạm Chiến Tranh vì vụ Tết Mậu Thân ở Huế]

Hãy coi câu chuyện ở Mỹ Lai như là một thí dụ về người lính Mỹ anh hùng của chúng ta khi hành sự - tàn sát trẻ con và hãm hiếp con gái Việt Nam để làm cho thế giới yên ổn cho những công ty như Coca Cola và hãng dầu Standard.

Nhờ có sự kỳ thị chủng tộc kiêu căng, tự cho là công chính và không quan tâm của Mỹ mà người Việt Nam tiếp tục bị đau khổ. Năm 1985 người ta ước tính là một phần ba đất đai [Nam] Việt Nam bị nhiễm độc, vì Không Quân Mỹ đã dùng thuốc khai quang như Chất Độc Màu Cam. Điều này đã khiến cho Việt Nam nghèo nàn, đất đai bị ô nhiễm nặng và có đầy những trái bom chùm chưa nổ - và người dân bị khủng khoảng tâm lý. 30 năm chiến tranh diệt chủng được nối tiếp bởi gần 20 năm cấm vận của Mỹ. [Giáo sư Noam Chomsky cũng đã châm biếm, cho rằng Mỹ đã thắng một phần ở Việt Nam (A partial victory) vì đã thành công để lại cho Việt Nam một di sản tan hoang đất nước, khó có cơ hội phục hồi về xã hội và kinh tế… (Nhưng CS VN đã phục hồi được về xã hội và kinh tế, và còn tiến xa hơn trước)]

Trong những năm từ khi những binh sĩ Mỹ giết người, hãm hiếp, lực lượng SEALS [Sea, Air and Land Forces], của Thủy Quân bị đá ra khỏi Việt Nam một cách ô nhục, cái di sản ác ôn của Mỹ để lại vẫn tiếp tục có ảnh hưởng đến người dân. Chất độc Da Cam đã đưa đến nhiều vụ khuyết tật bẩm sinh trong những thế hệ người dân Việt Nam và nhiều trăm ngàn trường hợp chết về ung thư đã xẩy ra trong những người sống trong những vùng bị trải thuốc khai quang..

Những trái bom chùm chưa nổ đã tạo ra những bãi mìn không có họa đồ, làm cho mọi người sợ hãi không dám canh tác trong những cánh đồng có thể trồng trọt được và ruộng lúa. Những trái bom đó của Mỹ vẫn tiếp tục giết hại, làm chân tay tàn phế và bị tàn tật suốt đời cho nhiều ngàn trẻ con và người lớn Việt Nam.

“Thượng Nghị Sĩ Wayne Morse, (Đảng dân Chủ - Oregon), 1967: Theo sự phán xét của tôi, chúng ta sẽ trở thành kẻ có tội vì là sự đe dọa lớn nhất cho nền hòa bình thế giới. Đó là một sự thực xấu xa, và người Mỹ chúng ta không thích đối diện với nó. Tôi thật không muốn nghĩ rằng một trang sử của Mỹ sẽ được viết ra liên quan đến chính sách vô pháp của chúng ta ở Đông Nam Á”.

.......... mời các độc giả đọc tiếp trên trang http://sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts040.php

Xem thêm →

Danh mục

 

Bài viết tiêu điểm

Từ khoá hot: Hoat dong thu tuong Nguyen Tan Dung , Nguyen Tan Dung, Tiểu sử CTN Trương Tấn Sang, Bi thu Le Thanh Hai, Hoat dong Bo truong Tran Dai Quang, tieu su Tran Dai Quang, Vai trò Thủ tướng, Tiểu sử TBT Nguyễn Phú Trọng, Do Ba Ty, Nguyen Thanh Phuong, Vo Van Thuong, Nguyen Bao Hoang
Thon Lam Bao Thon Lam Bao
9.9105000000 Designed by