Blogger Widgets
Nguyen Tan Dung

Tieu su thu tuong Nguyen Tan Dung

Để tránh những luồng thông tin trái chiều và sai sự thật, Thôn làm báo đưa ra một số thông tin về tiểu sử của thủ tướng VN NGUYỄN TẤN DŨNG Đọc thêm...

Truong Tan Sang

Tiểu sử CTN Trương Tấn Sang

Tại phiên làm việc hôm nay (25/7), với 487 số phiếu tán thành, chiếm 97,4%, Quốc hội đã bầu ông Trương Tấn Sang giữ chức Chủ tịch nước. Xin trân trọng giới thiệu tóm tắt tiểu sử của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang Đọc thêm..

Lê Thanh Hải

Tiểu sử Lê Thanh Hải: Ủy viên Bộ Chính trị - Bí thư Thành ủy TPHCM

Để trả lời cho câu hỏi Lê Thanh Hải là ai, tránh những luồng thông tin sai sự thật về ông Lê Thanh Hải, Thôn làm báo cung cấp tiểu sử/ lý lịch Lê Thanh Hải Ủy viên Bộ Chính trị - Bí thư Thành Ủy TP.HCM: Tiểu sử và quá trình hoạt độn Đọc thêm...

Nguyễn Phú Trọng

Tiểu sử Nguyễn Phú Trọng: Tổng bí thư ban chấp hành TW Đảng

Để trả lời cho câu hỏi ông Nguyễn Phú Trọng là ai? là người như thế nào ? Mời các bạn theo dõi những luồng thông tin đúng sự thật về tiểu sử/lý lịch và quá trình hoạt động của Tổng bí Thư Nguyễn Phú Trọng Đọc thêm...

ALT_IMG

Tiểu sử Trần Đại Quang: Bộ trưởng Bộ Công an Ủy viên Bộ Chính trị

Để trả lời cho câu hỏi ông Trần Đại Quang là ai? là người như thế nào ? Mời các bạn theo dõi những luồng thông tin đúng sự thật về tiểu sử/lý lịch và quá trình hoạt động của Bộ trưởng Bộ Công an - Ủy viên Bộ Chính trị Trần Đại Quang Xem thêm...

Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

TT Nguyễn Tấn Dũng: ‘Mỹ cần sớm bỏ lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam’

0 nhận xét

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, Việt Nam mong muốn Mỹ với tư cách là một cường quốc ở châu Á – Thái Bình Dương sẽ đóng góp tích cực vào việc duy trì hòa bình, an ninh, ổn định trong khu vực.

Trao đổi với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc gặp chiều 4/6, Bộ trưởng Leon Panetta nhấn mạnh, chính phủ Mỹ coi trọng quan hệ với Việt Nam trong tổng thể chính sách châu Á – Thái Bình Dương. Ông mong muốn quan hệ hai nước tiếp tục phát triển hơn nữa trong thời gian tới trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là an ninh, quốc phòng.

Nhắc lại nội dung đã trao đổi với Bộ trưởng Phùng Quang Thanh vào sáng cùng ngày, ông Panetta bày tỏ sự hài lòng về hợp tác quốc phòng hai nước thời gian qua. Bộ trưởng Panetta khẳng định với những nền tảng hiện có, Chính phủ Mỹ mong muốn hai bên sớm có thể nâng cao quan hệ lên một mức độ hợp tác cao hơn, vì lợi ích của hai nước.

Đánh giá cao những bước tiến tích cực trong quan hệ hai nước kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1995, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh Việt Nam luôn xem Mỹ là đối tác hàng đầu. Việt Nam mong muốn Mỹ với tư cách là một cường quốc ở châu Á – Thái Bình Dương sẽ đóng góp tích cực vào việc duy trì hòa bình, an ninh, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực.


Người đứng đầu Chính phủ nhấn mạnh, hai bên cần nỗ lực hơn nữa trong quá trình xây dựng niềm tin và nâng tầm quan hệ hợp tác giữa hai nước. Để phục vụ mục tiêu này, Chính phủ Mỹ cần sớm bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam và đóng góp tích cực hơn nữa trong việc giải quyết hậu quả chiến tranh.

Bên cạnh đó, Thủ tướng cũng khẳng định Việt Nam mong muốn cùng với Mỹ thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ giữa hai nước. Thủ tướng nêu một lĩnh vực đặc biệt chú trọng như kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo; ứng phó với các vấn đề toàn cầu và khu vực như chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, an toàn và an ninh biển; ứng phó với biến đổi khí hậu… vì lợi ích chính đáng và trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền.

Hoan nghênh những ý kiến của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Bộ trưởng Panetta gửi lời cảm ơn Thủ tướng và các bộ, ngành Việt Nam đã tạo điều kiện để đoàn thực hiện chuyến thăm thành công tốt đẹp.
Xem thêm →
Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thảo luận với Thủ tướng Thái Lan Yingluck Shinawatra

0 nhận xét

Bên lề Diễn đàn kinh tế thế giới Đông Á (WEF Đông Á) được tổ chức tại Bangkok của Thái Lan, chiều 31/5, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có cuộc gặp với Thủ tướng nước chủ nhà Thái Lan Yingluck Shinawatra.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Thái Lan
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Thái Lan

Thủ tướng Thái Lan đánh giá cao những thành tựu của Việt Nam sau hơn 25 năm đổi mới; bày tỏ vui mừng về quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam và Thái Lan đã không ngừng được củng cố và tăng cường.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ cảm ơn lòng mến khách và sự đón tiếp trọng thị mà bà Thủ tướng với tư cách chủ nhà đã dành cho đoàn đại biểu Việt Nam; đánh giá cao những thành tựu mà Thái Lan đã giành được trong thời gian qua, nhất là việc khắc phục hậu quả các trận lũ lụt cuối năm 2011 và từng bước phục hồi kinh tế.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Hội nghị WEF
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Hội nghị WEF

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Việt Nam sẽ tiếp tục thúc đẩy hợp tác với Thái Lan trên tinh thần hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, đưa quan hệ hai nước lên tầm cao mới.
Hai thủ tướng nhất trí hai bên sẽ tăng cường trao đổi các đoàn cấp cao, các bộ ngành và địa phương, tiếp tục duy trì và phát huy hiệu quả các cơ chế hợp tác song phương sẵn có như Nhóm Công tác chung về chính trị an ninh, tham khảo chính trị giữa hai bộ Ngoại giao và Ủy ban hỗn hợp về thương mại.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Yingluck Shinawatra
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Yingluck Shinawatra

Hai Thủ tướng thỏa thuận sẽ tiến hành cuộc họp nội các chung hai nước vào cuối năm nay và cùng thống nhất cho rằng, hai nước còn nhiều tiềm năng để tăng cường hợp tác nhất là về kinh tế, thương mại, đầu tư, trước mắt là hợp tác khai thác hiệu quả hành lang kinh tế Đông-Tây; cũng đã trao đổi về sự hợp tác giữa hai nước trong các cơ chế hợp tác khu vực và tiểu vùng như ASEAN, GMS, ACMECS….; cùng nhất trí cho rằng việc sử dụng bền vững nguồn nước sông Mekong là nhân tố quan trọng, góp phần vào công cuộc phát triển của tất cả các quốc gia ven sông.
Xem thêm →

TT Nguyễn Tấn Dũng tiếp Chủ tịch Klaus Schwab

0 nhận xét

Bên lề Diễn đàn kinh tế thế giới Đông Á (WEF Đông Á) được tổ chức tại Bangkok của Thái Lan, chiều 31/5.Tại cuộc gặp Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới Klaus Schwab, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao chủ đề hội nghị lần này “Cơ hội và thách thức trong định hình tương lai khu vực Đông Á thông qua kết nối” và kết quả phiên khai mạc toàn thể với sự tham dự của nguyên thủ một số nước trong khu vực và Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Việt Nam quan tâm tới các nội dung trao đổi tại hội nghị lần này, nhất là các vấn đề liên quan đến kết nối khu vực, xác định mô hình tăng trưởng phù hợp cho khu vực Đông Á, đối phó các thách thức phát triển.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp Chủ tịch Diễn đàn kinh tế Thế giới Klaus Schwab.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp Chủ tịch Diễn đàn kinh tế Thế giới Klaus Schwab.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết Chính phủ Việt Nam đang triển khai Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020, với 3 khâu đột phá về thể chế, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực đồng thời ưu tiên tái cấu trúc kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững, đối phó với các thách thức phát triển (biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước…). Đây cũng là quan tâm chung của nhiều nước trong khu vực Đông Á và trên thế giới. Vì vậy, Việt Nam mong muốn các hội nghị thường niên của WEF trong thời gian tới sẽ tiếp tục đề cập tới những chủ đề quan trọng này.

Hoan nghênh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tham dự hội nghị, Chủ tịch Klaus Schwab khẳng định mong muốn thúc đẩy quan hệ hợp tác với Việt Nam đồng thời tích cực xem xét bàn thảo về các vấn đề theo đề nghị nêu trên của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Diễn đàn Kinh tế thế giới.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới Klaus Schwab bày tỏ hài lòng trước sự phát triển của quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa Việt Nam và Diễn đàn Kinh tế Thế giới trong thời gian qua, nhất là sau thành công của Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về Đông Á được tổ chức tại Việt Nam tháng 6/2010.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới Klaus Schwab đánh giá cao việc hai bên đang phối hợp triển khai một số sáng kiến như dự án Tầm nhìn chung trong nông nghiệp, dự án Hiện đại hóa hải quan…, khẳng định sẽ tăng cường hợp tác trong thời gian tới.
Xem thêm →

TT Nguyễn Tấn Dũng: Tăng cường hợp tác, kết nối khu vực Đông Á

0 nhận xét

Chiều nay (31/5), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã dẫn đầu Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Đông Á (WEF Đông Á) diễn ra tại Bangkok, Thái Lan.

Với chủ đề “Định hình tương lai khu vực thông qua kết nối”, Hội nghị WEF Đông Á 2012 thu hút sự tham dự của lãnh đạo cấp cao nhiều nước trong khu vực Châu Á như Thủ tướng Chính phủ Vương quốc Thái Lan, Thủ tướng nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Tổng thống Indonesia, Thủ tướng Chính phủ Vương quốc Bahrain, lãnh đạo nhiều tổ chức quốc tế như Tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới, Tổng Giám đốc Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển, lãnh đạo Ngân hàng Phát triển châu Á và hơn 600 đại biểu là các chính khách, lãnh đạo các tập đoàn hàng đầu và các học giả quốc tế đến từ 50 quốc gia trên thế giới.

Hội nghị tập trung thảo luận các đề xuất và giải pháp tăng cường hợp tác, kết nối khu vực Đông Á như là một phương thức nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Hội nghị WEF
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Hội nghị WEF

Các nước đánh giá cao mô hình và kết quả liên kết và hợp tác trong khuôn khổ ASEAN đã góp phần giúp các nước ASEAN duy trì tốc độ tăng trưởng GDP tương đối cao và ứng phó hiệu quả hơn với các thách thức đang đặt ra cho phát triển trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, thách thức và phục hồi chưa bền vững.

Với dân số trên 600 triệu người và tổng GDP trên 1.800 tỷ USD, ASEAN được đánh giá là khu vực quan trọng, mang tính chiến lược trong nền kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời đóng vai trò tích cực trong thúc đẩy hợp tác, kết nối khu vực thông qua việc đẩy mạnh liên kết ASEAN và các cấu trúc liên kết ở Đông Á.

Hội nghị nhấn mạnh các nước Đông Á cần tiếp tục quá trình điều chỉnh các mô hình tăng trưởng nhằm thích ứng với bối cảnh kinh tế thế giới sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009. Trong quá trình này, các nước cần chú trọng tăng cường năng lực ứng phó với các thách thức phát triển đang nổi lên, nhất là triển khai các chính sách tài chính hiệu quả nhằm kiểm soát lạm phát, chu chuyển vốn, biến động giá cả hàng hóa; tái cấu trúc kinh tế hướng tới tăng trưởng cân bằng và bền vững; tăng cường phối hợp chính sách và hành động nhằm hạn chế hậu quả của những biến động không thể dự báo như thiên tai, biến đổi khí hậu. Các nước ASEAN cần tiếp tục quá trình xây dựng nền kinh tế đảm bảo an ninh lương thực, nước và năng lượng, đồng thời chú trọng tới thu hẹp khoảng cách phát triển và hoàn thành các Mục tiêu Phát triển Thiên Niên kỷ.

Phát biểu tại Phiên khai mạc toàn thể Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận định, hợp tác, kết nối khu vực hiện là một trong những xu hướng chủ đạo tại Đông Á với vai trò tích cực của các nước trong khu vực, đặc biệt là các quốc gia thành viên ASEAN.

Song song với tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, các quốc gia thành viên ASEAN đã chủ động phối hợp với các nước đối tác trong và ngoài khu vực Đông Á triển khai nhiều chương trình, sáng kiến, cơ chế hợp tác đa dạng về cấp độ và phong phú về nội dung hợp tác, bao gồm các chương trình hợp tác tiểu vùng Mekong, các khuôn khổ hợp tác ASEAN+1 và ASEAN+3, Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS)…

Các chương trình, sáng kiến và cơ chế hợp tác đã góp phần thúc đẩy đối thoại, hiểu biết và phối hợp chính sách giữa các nước liên quan, tạo môi trường thuận lợi và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của khu vực, củng cố thêm vai trò của Đông Á trong cấu trúc kinh tế toàn cầu.

Những thành công đạt được đã tạo cho các nước Đông Á nhiều cơ hội và thuận lợi to lớn để làm sâu sắc hơn nữa hợp tác và kết nối khu vực; tuy nhiên, quá trình này cũng đang phải đối mặt với những thách thức và khó khăn không nhỏ. Tái cấu trúc kinh tế thế giới diễn ra mạnh mẽ trong điều kiện sản xuất kinh doanh suy giảm, lạm phát, nợ công gia tăng, giá năng lượng và lương thực thế giới diễn biến phức tạp… đòi hỏi các cấu trúc khu vực, trong đó khuôn khổ hợp tác Đông Á phải có những điều chỉnh phù hợp.

Đề cập tới chủ đề trọng tâm của Hội nghị là tăng cường hợp tác, kết nối khu vực như một nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của các nước Đông Á và góp phần tạo nên sự năng động của khu vực, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chia sẻ nhiều đánh giá và đề xuất quan trọng, nhất là: phát huy các khuôn khổ hợp tác ở kkhu vực với ASEAN đóng vai trò trung tâm (như ASEAN + 1, ASEAN + 3, Cấp cao Đông Á…); đảm bảo “tính đồng bộ” trong hợp tác khu vực, đặc biệt là đồng bộ trong việc tham gia các nội dung hợp tác và đảm bảo hài hòa các chính sách, luật lệ, thủ tục trong các dự án kết nối kinh tế; tăng cường “tính thích ứng” của hợp tác, kết nối khu vực Đông Á trước những biến động của môi trường bên ngoài, ngăn ngừa nguy cơ khủng hoảng tài chính-tiền tệ, chống chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, quản lý thiên tai, đảm bảo an ninh nguồn nước.

Đồng thời, Thủ tướng nhấn mạnh cần phải bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định để phục vụ phát triển trong đó có bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải trên Biển Đông.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng nêu bật chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam, với một trong những ưu tiên là tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng, xác định trách nhiệm cao trong xây dựng Cộng đồng ASEAN, nâng cao hiệu quả tham gia các khuôn khổ, cơ chế hợp tác khu vực Đông Á.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo thuận lợi để thu hút mạnh các nguồn vốn quốc tế, các nhà đầu tư lớn, có công nghệ cao, công nghệ nguồn, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Xem thêm →

Bộ trưởng Thăng: Bổ nhiệm ông Dũng để cứu Vinalines

0 nhận xét

"Các đồng chí lãnh đạo Bộ GTVT có trao đổi lại với tôi về tình hình ở Vinalines có thể nói là mất đoàn kết nội bộ từ lâu, chính vì vậy Ban cán sự Đảng quyết tâm đưa ông Dũng khỏi vị trí Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinalines".

Ngày 30/5, Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng lý giải về việc bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng làm Cục trưởng Cục Hàng hải từ vị trí Chủ tịch HĐQT Vinalines.

Xin Bộ trưởng cho biết, vì sao có một số sai phạm của ông Dương Chí Dũng được nhiều người biết, nhưng ông Dũng vẫn được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Hàng hải VN?
Trước hết phải nói rằng việc bổ nhiệm ông Dũng là hạ một cấp vì Chủ tịch Hội đồng thành viên là do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ GTVT, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và thẩm định của các ban Đảng trung ương có liên quan. Còn bổ nhiệm Cục trưởng Cục Hàng hải là do Bộ trưởng Bộ GTVT bổ nhiệm.

Trước khi có kết luận Thanh tra Chính phủ, chúng tôi không nhận được bất kỳ thông tin nào về Vinalines thua lỗ hay ông Dũng sai phạm.

dinhla thang
Bộ trưởng Đinh La Thăng: “Việc bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng là đúng quy trình, đúng quy định, đúng thẩm quyền đã được các cơ quan chức năng có liên quan thẩm định"

Tôi về Bộ GTVT tháng 8/2011 thì tháng 9 tôi đã làm việc với tập thể Đảng bộ Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines). Sau đó Tổng giám đốc Vinalines và các đồng chí lãnh đạo Bộ GTVT có trao đổi lại với tôi về tình hình ở Vinalines có thể nói là mất đoàn kết nội bộ từ lâu, chính vì vậy Ban cán sự Đảng quyết tâm đưa ông Dũng khỏi vị trí Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinalines.

Nhưng vì trước đó chưa có thông tin gì về sai phạm khuyết điểm gì của ông Dũng, thậm chí khi làm thủ tục đưa ông Dũng sang làm Cục trưởng Cục hàng hải thì ông Dũng đang là Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch hội đồng thành viên, Thường vụ Đảng uỷ khối doanh nghiệp Trung ương. Và trong tất cả các nhận xét đánh giá cán bộ cuối năm, hàng năm đều được nhận xét đánh giá là rất tốt.

Bộ trưởng Đinh La Thăng chúc mừng ông Dương Chí Dũng (ngoài cùng bên phải) khi nhậm chức. Ảnh: Cục Hàng hải
Bộ trưởng Đinh La Thăng chúc mừng ông Dương Chí Dũng (ngoài cùng bên phải) khi nhậm chức. Ảnh: Cục Hàng hải

Thực tế đến trước khi có kết luận chính thức của Thanh tra Chính phủ, chúng tôi không nhận được bất kỳ thông tin gì của cơ quan thanh tra hay công an cũng như đơn tố cáo sai phạm của ông Dũng.

Bộ trưởng vừa nói ở thời điểm bổ nhiệm ông Dũng làm Cục trưởng Cục Hàng hải chưa có thông tin sai phạm của Vinalines, vậy mục đích điều chuyển công tác của ông Dũng từ Vinlines sang Cục hàng hải (Bộ GTVT) lúc đó là gì?

Việc Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Vinalines không thống nhất với nhau về quan điểm về cách làm thì sẽ ngăn cản sự phát triển, nhất là trong bối cảnh Vinalines đang đứng trước khó khăn trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới.

Chính vì vậy, mục đích là tách Chủ tịch với Tổng giám đốc ở Vinalines để đảm bảo sự đoàn kết trong Vinalines, vì ở đơn vị này có biểu hiện của sự mất đoàn kết nội bộ, đồng thời để đẩy mạnh thực hiện chiến lược biển và đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu Vinalines.

Dư luận đang rất băn khoăn là tại thời điểm bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng chưa kết thúc thanh tra. Tại sao Bộ GTVT không đợi kết thúc thanh tra rồi hãy bổ nhiệm?

Như tôi đã nói từ tháng 9 lãnh đạo Bộ đã có chủ trương điều chuyển ông Dũng ra khỏi vị trí khác. Và việc điều chuyển ông Dũng là quyết tâm rất cao của lãnh đạo bộ, của tập thể Ban cán sự sau hơn 1 tháng trời vận động, động viên cuối cùng ông Dũng mới chấp thuận về Cục Hàng hải.

Nếu là thẩm quyền của tôi thì tháng 9 tôi đã quyết định xong rồi chứ không phải đợi đến gần khi có quyết định thanh tra rồi mới bổ nhiệm. Nhưng vì quy trình làm thủ tục quá lâu từ lúc đề xuất tháng 10/2011 nhưng đến tháng 2/2012 mới có quyết định nên mới giáp thời gian có kết quả thanh tra như vậy.

Ngoài ra, theo quy định hiện hành của nhà nước, hoạt động thanh tra với các đơn vị, các doanh nghiệp thì mọi hoạt động của doanh nghiệp, đơn vị đều diễn ra một cách bình thường trong đó cả về công tác nhân sự. Và khi đã điều động cán bộ sang vị trí khác thanh tra phát hiện sai phạm thì vẫn phải chấp hành chứ không có nghĩa điều đi là hết trách nhiệm.

Khi về làm Bộ Trưởng Bộ GTVT, ông đã biết gì về năng lực cũng như đạo đức của ông Dũng?

Trước đó tôi biết ông Dũng qua sinh hoạt Đảng uỷ tại khối doanh nghiệp Trung ương.

Cuối năm 2010, tại đại hội Đảng khối doanh nghiệp Trung ương, ông Dũng vẫn được bầu vào Ban chấp hành Đảng uỷ và được Ban chấp hành bầu vào thường vụ Đảng uỷ khối đồng thời còn được bầu là đại biểu đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Đây là đánh giá chính thống nhất của tổ chức về năng lực, đạo đức cán bộ.

Còn hỏi cụ thể về con người ông Dũng thì tôi không biết. Theo tôi việc đánh giá một con người là một quá trình rất phức tạp và phải dựa vào tập thể chứ không thể dựa vào cá nhân được.

Vì sao báo cáo kiểm toán nhà nước báo cáo các năm từ 2007 đến 20010 Vinalines đều làm ăn tốt và có lãi, nhưng kết luận Thanh tra Chính phủ lại nói lỗ?

Bắt đầu từ 2008 xuất hiện khủng hoảng kinh tế thế giới và Việt Nam đương nhiên cũng bị ảnh hưởng, các doanh nghiệp Việt Nam bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đều bị ảnh hưởng.

Đặc biệt đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp đóng tàu và vận tải biển bị ảnh hưởng lớn nhất, cước vận tải giảm từ 60 đến 90%. Trước tình hình đó một số các doanh nghiệp vận tải biển, trong đó có Vinalines đã báo cáo và được Bộ Tài chính cho phép giãn khấu hao và chênh lệch tỉ giá cho nên căn cứ vào quyết định của Bộ Tài Chính như vậy thì Vinalines đã hạch toán và kết quả là trong các năm đều có lãi.

Cụ thể năm 2007 lãi 943 tỷ đồng, 2008 lãi 1.212 tỷ, 2009 lãi 342 tỷ đồng, 2010 lãi 114 tỷ. Nhưng tôi không hiểu sao thanh tra lại không căn cứ vào văn bản của Bộ Tài Chính để có kết luận phù hợp.

Tại thời điểm hiện này ông Dũng đã có sai phạm qua kết luận của cơ quan điều tra và ông Dũng đang bị truy nã. Nhìn lại việc bổ nhiệm ôngDũng, Bộ trưởng có rút được bài học kinh nghiệp gì không?

Trước hết phải khẳng định việc bổ nhiệm ông Dũng là đúng quy trình, đúng quy định, đúng thẩm quyền đã được các cơ quan chức năng có liên quan thẩm định kỹ.

Tuy nhiên qua việc này, chúng tôi cũng rút kinh nghiệm sâu sắc là cần phải chủ động cung cấp thông tin kịp thời cho báo chí và dư luận.

Còn quy trình quy định bổ nhiệm tôi khẳng định là hoàn toàn đúng đắn. Nếu sai về quy trình, quy định bổ nhiệm ông Dũng tôi xin chịu trách nhiệm.

Việc bổ nhiệm cán bộ Bộ, ngành hiện này về quy trình thủ tục hầu hết đều đúng nguyên tắc, nhưng cán bộ khi được bổ nhiêm vẫn chưa đáp ứng được công việc, hoặc có những sai phạm. Ý kiến của Bộ trưởng về vấn đề này như thế nào?

Quản lý nhà nước, bổ nhiệm sử dụng cán bộ thì phải theo quy trình, quy định về công tác cán bộ của Đảng của Nhà nước.

Tập thể lãnh đạo có xem xét nhiều lần đánh giá từ dưới cơ sở đến các cơ quan liên quan. và mình tôi không thể quyết định được. Nếu tôi có quyền quyết định tôi đã quyết định anh Dũng từ Vinalines lên Bộ ngay từ tháng 9/2011, vì nói gì thì nói anh là bí thư Đảng uỷ đơn vị anh để mất đoàn kết ở Vinalines là anh phải chịu trách nhiệm.

Bộ trưởng đánh giá như thế nào khi các Đại biểu Quốc hội cho rằng, việc bổ nhiệm Cục trưởng Dương Chí Dũng là bất bình thường?

Đó là quyền của các Đại biểu Quốc hội, tôi hoàn toàn trân trọng ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, mỗi người có một cách tiếp cận và đánh giá khác nhau. Việc bổ nhiệm ông Dũng đã theo đúng quy trình quy định của Đảng, Nhà nước. Tôi không thấy có gì bất bình thường.

Uy tín của Bộ trưởng và Bộ GTVT sẽ ảnh hưởng và xấu đi không sau vụ việc này?

Ông Dũng vi phạm khi đang là Chủ tịch Hội đồng thành viên Vinalines từ năm 2007, sai phạm khi đang đương chức ở Tổng Công ty cách đây 5 năm chứ không phải là ở vị trí Cục trưởng Cục Hàng hải.

Cá nhân Bộ trưởng thấy mình có trách nhiệm gì?

Việc ký quyết định bổ nhiệm có sai không? Sai Bộ trưởng mới chịu trách nhiệm. Tôi sẵn sàng chịu trách nhiệm nếu tôi sai!
Xem thêm →
Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

Thủ tướng yêu cầu báo cáo vụ bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng

0 nhận xét

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Bộ Giao thông vận tải và Bộ Nội vụ giải trình làm rõ vấn đề liên quan đến việc bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng làm Cục trưởng Cục Hàng Hải.

Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ GTVT và Bộ Nội vụ giải trình làm rõ vấn đề liên quan đến việc bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng làm Cục trưởng Cục Hàng Hải. 

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Bộ GTVT, Bộ Nội vụ trước ngày 31/5 phải có báo cáo Thủ tướng về việc thực hiện quy trình bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng làm Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam trong khi Thanh tra Chính phủ đang thanh tra việc chấp hành pháp luật trong công tác quản lý, sử dụng vốn và tài sản tại Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines).
Xem thêm →
Thứ Ba, 29 tháng 5, 2012

Cộng sản Việt Nam hèn nhát?

0 nhận xét

Lâu nay một bộ phận trong dư luận hải ngoại thường cho rằng Đảng, Nhà nước, Chính phủ, những người lãnh đạo CHXHCN Việt Nam, hoặc những bộ phận của Đảng và Nhà nước cộng sản là "hèn nhát" trước Trung Quốc mỗi khi Việt Nam làm cái này hoặc không làm cái kia, đặt nặng vấn đề này hoặc không đặt nặng vấn đề kia.

Bài viết của blogger Thiếu Long, một người Việt đang định cư tại bang Texas (Mỹ).


Tôi thì chỉ nhìn vào vấn đề chính, cái cốt lõi nhất, đó là khi có xâm lược thì Việt Nam sẵn sàng đánh xâm lược và khi giặc chưa xâm lược thì Việt Nam đang tích cực bảo vệ chủ quyền bằng cách: Liên tục và thường xuyên tuyên bố khẳng định chủ quyền, phản đối Trung Quốc, và hiện đại hóa quân đội, nâng cao hệ thống phòng thủ và tăng cường năng lực tác chiến phòng thủ. Nghĩa là tất cả những gì liên quan đến chủ quyền thì chúng ta đều đã và đang làm, bất kể điều này đối nghịch với lợi ích và những tuyên bố của phía Trung Quốc, bất kể những điều này có làm Trung Quốc phật lòng hay không.

Từ thực tế khách quan trên, tôi cho rằng tất cả những hành động chính trị, quyết định chính trị của hệ thống chính trị Việt Nam đều có nguyên nhân của nó, và chắc chắn không thể xuất phát từ tinh thần hèn nhát. Cách đây không lâu, Việt Nam ngay cả cầm súng bắn Trung Quốc cũng đã làm thì không phải là hèn, và ngày nay, Việt Nam đang làm tất cả vì chủ quyền của mình bất kể nó mâu thuẫn với lợi ích Trung Quốc, như vậy không phải là hèn. Một người thì không thể vừa "hèn" vừa "không hèn", cho nên khi đã xác định Việt Nam không hèn thì nên có một niềm tin nhất định, đó là niềm tin thực tế, có căn cứ, chứ không phải niềm tin mù quáng, phi thực tế, vô căn cứ.

Từ sự hiểu rõ bản chất và niềm tin trên, mỗi khi tôi thấy Việt Nam nhường Trung Quốc điều gì, hay tỏ thái độ mềm dẻo gì thì tôi hiểu rằng đó là những sách lược chính trị tạm thời và đều có nguyên nhân sâu xa của nó, thậm chí có những vấn đề chính trị bên trong mà chúng ta chưa biết hết. Những hành động đó có thể đúng, có thể sai, có thể chúng ta đồng ý với nó, có thể chúng ta không đồng ý với nó, nhưng chắc chắn nó không phải xuất phát từ tâm lý hèn hạ, hèn nhát.

Có rất nhiều nguyên nhân khiến quan hệ Việt - Trung là mối quan hệ nhạy cảm và Trung Quốc luôn là bóng ma ám ảnh cho chủ quyền Việt Nam và là mối đe dọa lớn nhất cho chủ quyền lãnh thổ Việt Nam.

Có rất nhiều nguyên nhân vì sao các lãnh đạo Việt Nam coi đây là vấn đề nhạy cảm, và trong đó đều là những nguyên nhân khách quan với mong muốn trước hết là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, sau là bảo vệ hòa bình, tránh chiến tranh tàn phá đất nước, chiến sĩ hy sinh, đồng bào đổ máu, bao nhiều thành tựu từ Đổi mới, bao nhiêu nỗ lực xây dựng đất nước và hồi phục suy thoái kinh tế toàn cầu trở thành công cốc. Chứ trong đó không có cái gì là từ sự nhát, sợ Trung Quốc, hay hèn như một số người đã lầm tưởng.

Hiện Trung Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới có nguy cơ xảy ra chiến tranh với Việt Nam nhất. Do địa lý gần gũi thuận lợi, do có mâu thuẫn trực tiếp chủ quyền lãnh thổ và những nguồn lợi kinh tế biển, trong đó có những nguồn dầu ở Biển Đông.

Trung Quốc chưa gây chiến, chưa xâm lược là vì họ vẫn còn đang muốn giữ hòa bình để tập trung phát triển kinh tế và đang chưa có cái cớ nào khả dĩ để mà có thể dùng làm chiêu bài chính trị. Khi phe hiếu chiến lên nắm quyền, thì bất kỳ 1 chuyện nhỏ nào cũng có thể được dùng để khai thác, đào bới, khoét sâu, thổi phồng lên để hình thành 1 chiêu bài chính trị gây chiến.

Đừng tưởng sự dung dưỡng, thả lỏng đối với những chuyện nhỏ không thể tích tụ thành một chuyện lớn, tạo điều kiện cho Trung Quốc tuyên truyền thổi phồng, nâng cao quan điểm, leo thang mâu thuẫn, leo thang xung đột, từ khẩu chiến đến chiến tranh lạnh rồi tới xung đột quân sự, rồi tới chiến tranh toàn diện chỉ trong tích tắc (xem cuộc chiến 1979).

Đối với Trung Quốc là sự chưa muốn gây chiến. Còn đối với Việt Nam là sự hoàn toàn không muốn có chiến tranh lúc này. Việt Nam đang "sợ" chiến tranh hơn Trung Quốc là vì Việt Nam có nhiều thứ để mất hơn Trung Quốc, thế yếu hơn Trung Quốc, và tiềm lực quân sự, nhất là không quân và hải quân có thể tác chiến trên biển kém xa Trung Quốc. Thực lực đôi bên một trời một vực. Thực lực tổng thể đã một trời một vực, thực lực quân sự trên biển và trên không cũng còn một khoảng cách rất xa.

Nếu chiến tranh trên bộ thì Trung Quốc chắc chắn sẽ có kết quả tương tự như năm 1979, không có cơ hội nào thôn tính Việt Nam. Nhưng nếu là những trận đánh trên biển trong 1 hình thái chiến tranh mới, phụ thuộc nhiều vào sức mạnh vũ khí không quân và hải quân để làm chủ vùng trời và vùng biển thì hầu như chắc chắn Việt Nam sẽ thua và bị mất thêm chủ quyền, hầu hết các chuyên gia quân sự quốc tế đều đồng thuận với nhau về điểm này. Bởi vì trên biển và trên không, Việt Nam không thể áp dụng chiến tranh nhân dân và khó thể áp dụng chiến tranh du kích như trên bộ.

Trong cuộc chiến, sự thiệt hại của Trung Quốc nếu có chỉ sẽ là rất nhỏ so với thực lực tổng thể của họ, họ sẽ tốn thật nhiều lính mà họ có thể đang ngầm muốn chết bớt do nạn dân số và trai thừa gái thiếu, họ đang muốn "tống khứ" bao nhiêu đàn ông Trung Quốc đi ra nước ngoài qua nhiều hình thức khác nhau còn không kịp thì họ sẽ không tiếc sinh mạng những người lính. Nhưng Việt Nam thì tiếc mạng sống binh sĩ và đồng bào.

Có thể Trung Quốc sẽ mất vài tỷ đô la, một phần vũ khí sẽ bị hư hại, một số tàu sẽ chìm, rồi sao? Họ còn bao nhiêu tiền với tiềm lực kinh tế đó và còn bao nhiêu vũ khí khác chưa dùng và họ rất sẵn sàng mua lại hoặc chế mới để bổ sung, hiện họ vẫn đang mua sắm và sản xuất đều đặn.

Dù Việt Nam có thể tiếp nối truyền thống lấy ít địch nhiều, nhưng trong 1 cuộc chiến tranh trên biển, dù 1 tàu Việt Nam, 1 máy bay Việt Nam thiện chiến nhất thế giới thì cao lắm có thể chọi 3 tàu địch, máy bay địch, Việt Nam sẽ gây thiệt hại nặng cho địch về vũ khí, mạng đổi mạng với địch, nhưng sau khi ta hết vốn, địch cho bổ sung thì ta sẽ đưa lưng ra chịu đòn. Rồi sẽ có bao nhiêu Gạc Ma khác, có bao nhiêu Vòng tròn bất tử khác, bao nhiêu Quảng Trị khác (Năm 1972, Quân Giải phóng miền Nam không có không quân và hải quân nên trơ trọi chịu trận trước không quân Mỹ và Hạm đội 7 của Mỹ dội bom và pháo kích vào, quân đội ban đầu có cả ngàn người nhưng không còn bao nhiêu người sống sót, nhưng quyết bám đất đến cùng, không bỏ chạy, đó cũng là 1 Vòng tròn bất tử trong thời chống Mỹ.). Rồi ta sẽ mất bao nhiêu bãi Gạc Ma nữa, bao nhiêu người sẽ hy sinh nữa?

Và đáng lo nhất là sau 1 cuộc chiến hết vốn, địch vẫn còn vốn và tiếp tục mua mới, sản xuất với tiềm lực kinh tế đó, còn ta thì biết bao giờ mới xây dựng lại được 1 lực lượng hải quân tạm có tính răn đe như hiện nay? Bao giờ mới có lại những vũ khí hiện đại đó? Những anh bạn "không hèn" có sẵn sàng thắt lưng buộc bụng để cho Việt Nam có thể áp dụng chính sách Tiên quân (quân đội trước) như Triều Tiên hay không?

Khi nói, phán, chửi, chê thì rất dễ, không có gì dễ hơn, nhưng khi bắt tay trực tiếp vào làm mới thấy bao nhiêu chuyện. Đứng ngoài phê phán thì bao giờ cũng là dễ nhất.

Lực lượng hải quân và không quân Việt Nam hiện nay tuy đang được hiện đại hóa, nhưng nó vẫn chỉ có tính răn đe, làm cho Trung Quốc chùn bước phần nào vì sợ tổn thất vũ khí và tiền bạc, chứ nó chưa đủ sức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ nếu có 1 cuộc chiến tranh toàn diện tại đây. Hải quân Trung Quốc năm 2012 ngày nay không phải là hải quân lạc hậu năm 1988.

Vì những lẽ đó, mới có xu hướng nhường nhịn, lấy đại cuộc làm đầu, 1 câu nhịn 9 câu lành để bảo vệ chủ quyền biển đảo và giữ gìn hòa bình và sự ổn định trong khu vực. Vì khi có chiến tranh, Việt Nam ít nhiều gì cũng sẽ mất thêm chủ quyền, mất đi năng lực phòng thủ cho sau này, tạo ra thêm nguy cơ mất chủ quyền, bao nhiêu người hy sinh, và sẽ còn nhiều mất mát khác, kinh tế bị ảnh hưởng xấu, đời sống người dân nhất là ngư dân sẽ bị ảnh hưởng to lớn. Chính những lợi ích dân tộc đó, những lợi ích quốc gia đó của đất nước, mà chúng ta cố gắng không để bất kỳ cái gì biến thành (hoặc có thể để cho Trung Quốc sử dụng) một cuộc leo thang mâu thuẫn, xung đột từng bước.

Năm 1992 Việt Nam khó khăn lắm mới đấu tranh thuyết phục Trung Quốc ký vào hiệp nghị gác lại quá khứ và không tuyên truyền chống nhau, để hoàn toàn bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, xây dựng không khí hòa bình, xua tan không khí chiến tranh lạnh có thể bùng nổ thành chiến tranh nóng bất cứ lúc nào giữa 2 nước. Và lâu nay Trung Quốc về cơ bản vẫn ngăn chặn những thông tin về cuộc chiến năm 1979 và hải chiến TS. Bây giờ khi xảy ra cái gì, dù là chuyện nhỏ thôi, chúng nó vin vào đó bảo Việt Nam vi phạm hiệp định rồi bật đèn xanh thả lỏng cho giới trẻ, blogger Trung Quốc, hoặc chủ động cho truyền thông chính thống tuyên truyền bôi nhọ Việt Nam, xúc phạm những anh hùng liệt sĩ Việt Nam, xuyên tạc cuộc chiến 1979 và Hải chiến TS, Vòng tròn bất tử, Gạc Ma ... thì có phải là sẽ leo thang xung đột, và xung đột kéo theo xung đột, xung đột này mở ra xung đột kia hay không?

Và Việt Nam có thắng nổi một cuộc chiến tranh thông tin với Trung Quốc hay không? Thông tấn xã Việt Nam là gì so với Tân Hoa xã, CCTV có chi nhánh khắp thế giới? Cộng đồng mạng Việt Nam tỷ lệ so sánh với cộng đồng mạng Trung Quốc thế nào, rồi sự khổng lồ áp đảo này sẽ tác động tới quốc tế thế nào?

Trung Quốc không sợ chiến tranh, càng không sợ 1 cuộc chiến trên biển với Việt Nam vì họ biết ưu thế của họ và khuyết điểm quân sự của Việt Nam chưa đủ thời gian để lấp lại. Và 1 bộ phận bá quyền, bành trướng, phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh vẫn còn đó, chúng nó đang chực chờ 1 cái cớ để kiến nghị gây chiến. Loại chống Việt, muốn liên Tây đả Việt, sống ký sinh trên chiến tranh, theo chủ nghĩa sô-vanh đại dân tộc thì Trung Quốc lâu nay luôn có, chỉ cần chúng có cái cớ gì đó và chúng lên cầm quyền là xong. Đại hội Đảng Trung Quốc sắp đến và chúng ta chưa biết phe nào sẽ lên nắm quyền.

Ông Bạc Hy Lai thuộc phe tả khuynh, chống Tây bị phe hữu khuynh, thân Tây Ôn Gia Bảo, Tập Cận Bình dùng con bài Vương Lập Quân để làm cái cớ cách chức chính là 1 dấu hiệu không hay cho Việt Nam. Vì lâu nay phe đậm chất ý thức hệ như Bạc Hy Lai ở Trùng Khánh luôn có những xu hướng thân Việt Nam và chống Tây, chống tư bản hơn, vì lý do ý thức hệ.

Phe thân Tây thì chủ trương "viễn giao cận công" (hòa xa, chống gần). Đó là vì sao ông tổ của Cải cách Trung Quốc và thân Mỹ là Đặng Tiểu Bình cũng chính là tên đầu sỏ xâm lược Việt Nam trong năm 1979 trong khi phe trung thành với truyền thống, đậm chất ý thức hệ như Diệp Kiếm Anh, Hoa Quốc Phong đều phản đối.

Và còn bao nhiêu thế lực Mỹ - Tây, phản động đang rình rập tìm cách kích động chiến tranh giữa 2 nước từ nhiều động cơ, động lực khác nhau. Đục nước béo cò. Thừa nước đục thả câu.

Không nên thấy biển lặng sóng yên rồi mơ mộng tình hình vẫn đang ổn lắm, tốt lắm, thật ra chiến sự có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Mà một khi xảy ra thì Việt Nam chắc chắn sẽ mất thêm chủ quyền và nhiều mất mát khác về vũ khí, năng lực phòng thủ, thực lực tổng thể, kinh tế, sinh mạng con người v.v.

Cách đây 1 tuần NXB Tri Thức ở Việt Nam vừa xuất bản cuốn "Xung đột trên biển Đông không còn là nguy cơ tiềm ẩn" của tác giả Lê Hồng Thọ (Mỹ) và nhiều đồng tác giả trong và ngoài nước đã cho thấy chiến tranh đang chình ình trước mắt, bất kỳ một leo thang nào, một hành động nào dẫn tới leo thang, đều có thể dẫn tới xung đột quân sự và đưa tới chiến tranh quy mô. Đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ mất thêm chủ quyền và thêm hàng ngàn người Việt Nam sẽ thiệt mạng, đời sống người dân đang khó khăn sẽ còn khó hơn, và bao công lao xây dựng hệ thống quốc phòng trên biển và phục hồi khủng hoảng sẽ trôi sông trôi biển.

Do địa lý gần gũi thuận tiện, Trung Quốc có quan hệ ràng buộc kinh tế rất lớn với Việt Nam, là 1 thị trường xuất khẩu khổng lồ của Việt Nam, nhất là lương thực, hiện Trung Quốc đang là thị trường rộng lớn nhất và thuận tiện nhất cho người Việt Nam trong khu vực. Trong đó, Trung Quốc hiện đang nổi lên là một thị trường nhập khẩu gạo ngày càng quan trọng của Việt Nam.

Trong vòng hơn hai tháng qua chỉ riêng Trung Quốc đã nhập khẩu từ Việt Nam 500.000 tấn gạo. Dự báo trong năm nay, Trung Quốc có thể nhập khẩu từ Việt Nam ít nhất là 1 triệu tấn gạo. Nếu xảy ra chiến tranh, Trung Quốc sẽ học Mỹ ban lệnh cấm vận như thời gian 1979-1992, bao nhiêu nông dân Việt Nam sẽ phải chật vật. Năm 1992, Việt Nam đã rất khó khăn để phá thế cấm vận của Mỹ - Trung.

Tức là bên cạnh việc mất thêm chủ quyền, lãnh thổ, lãnh hải, máu đổ, chết chóc, đời sống dân chúng cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, khó khăn chồng chất thêm khó khăn, khủng hoảng tài chính quốc tế vừa đẩy đi phần nào sẽ trở lại. Chứ không phải chỉ có đánh nhau đổ máu trên đất liền, trong thành phố thì mới đưa đến đổ vỡ kinh tế.

Việt Nam có hèn không? Muốn biết có hèn không thì cứ nhìn thẳng vào thực tế về những vấn đề chính: Từ khi Việt Nam giành lại được độc lập từ năm 1945 tới nay, bất kỳ bọn giặc nào, từ đâu, kéo tới xâm lược là ta đếu đánh chúng ra ngoài, hết giặc này đến giặc khác, trong đó có cả Trung Quốc. Còn khi chúng chưa kéo tới đánh thì ta luôn tuyên bố khẳng định chủ quyền và tuyên bố công khai, chính thức phản đối những hành động xâm phạm chủ quyền hoặc hành xử chủ quyền trên những vùng tạm chiếm. Và liên tục tăng cường hiện đại hóa quốc phòng, chú trọng vào hải quân, không quân, mua sắm mới, sản xuất mới.

Chúng ta đánh Trung Quốc khi chúng xâm lược, cầm súng bắn vào Trung Quốc thì sao gọi là hèn nhát? Có hành động nào dũng cảm hơn thế?

Chúng ta liên tục và thường xuyên hành xử chủ quyền, tổ chức bầu cử, khai thác tài nguyên trên những vùng Trung Quốc tuyên bố thì sao gọi là sợ Trung Quốc?

Chúng ta liên tục và thường xuyên phản đối cấp quốc gia và quốc tế đối với những tuyên bố của Trung Quốc và những hành động hành xử chủ quyền và hợp tác khai thác tài nguyên trong vùng tranh chấp, thì sao gọi là hèn nhát?

Chúng ta liên tục, thường xuyên công khai và chính thức khẳng định chủ quyền lãnh thổ mà Trung Quốc tuyên bố. Bác bỏ và phủ định những tuyên bố chính thức của Trung Quốc, sao có thể gọi là hèn nhát?

Chúng ta liên tục nâng cấp vũ khí, hiện đại hóa hải quân, không quân, mua sắm mới, sản xuất mới, trong khi đang có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc, sao gọi là hèn nhát?

Chúng ta nhiều lần tập trận bắn đạn thật, phóng tên lửa thật ở Trường Sa, trên Biển Đông, ngay trên vùng tranh chấp, sao lại gọi là hèn nhát?

Rõ ràng Việt Nam công khai và chính thức, giữa ban ngày ban mặt quang minh chính đại làm những hành động trực tiếp như trên, trong khi Trung Quốc và cả thế giới biết Việt Nam đang có tranh chấp, bất đồng về biển đảo, lãnh hải, lãnh thổ với Trung Quốc, làm sao có thể gọi là hèn được?

Việt Nam luôn đặt chủ quyền lên trên hết, lên trên cả mong muốn hòa bình và kinh tế. Nếu Việt Nam đặt hòa bình cao hơn thì đã không có những hành động trên, mà mỗi hành động đều như tát nước vào các tuyên bố và hành động của Trung Quốc, trái ngược và đối nghịch, đối chọi chan chát với những lập trường, quan điểm, quyền lợi của Trung Quốc, mỗi hành động này đều có thể tạo ra sự leo thang thành xung đột vũ trang và chiến tranh trên biển. Việt Nam ý thức rõ điều đó, nhưng vẫn làm, vì nó là chủ quyền, Việt Nam đặt chủ quyền lên trên hòa bình.

Nếu Việt Nam đặt kinh tế lên trên chủ quyền thì cũng như đã nói, đã không tốn hàng tỷ đô la mua nhiều vũ khí tối tân, đã không dám làm những cái gì có thể gây ra sự leo thang mâu thuẫn đưa tới xung đột quân sự, gây tác động tiêu cực tới nền kinh tế.

Tất cả những gì liên quan tới chủ quyền, lãnh thổ thì Việt Nam đều đã làm những gì có thể làm, những gì trong khả năng thực tế mà thế và lực Việt Nam hiện nay có thể làm. Bất kể nó trái ngược với lợi ích kinh tế hay nguyện vọng hòa bình ổn định của Việt Nam trong khu vực. Bất kể nó đi ngược lại với những tuyên bố, khẳng định, quan điểm, lập luận, và lợi ích của Trung Quốc.

Nhưng những gì không liên quan tới chủ quyền, bất cứ cái gì khác mà không liên quan đến chủ quyền thì chúng ta đều có thể hy sinh, để bảo vệ chủ quyền và bảo vệ hòa bình, tránh chiến tranh, như những lý do đã phân tích ở trên.

Và bảo vệ hòa bình trong trường hợp này cũng chính là bảo vệ chủ quyền, vì khi có chiến tranh thì Việt Nam sẽ mất thêm lãnh thổ, lãnh hải so với tương quan lực lượng quân sự giữa hai bên lúc này. Và sau chiến tranh nguy cơ bị mất thêm, mất tiếp chủ quyền sẽ còn dài dài vì lúc đó Việt Nam phải xây dựng lại hệ thống quốc phòng gần như từ đầu, đã cạn vốn.

Cho nên, tất cả những cái gì mà một số "còm sĩ", "phán sĩ" bảo rằng tại sao không dám cái này, tại sao phải nín cái kia, tại sao phải nhịn cái nọ, tại sao phải bảo mật cái này, phải không công bố cái kia v.v. Tất cả những hành động đó không phải là xuất phát từ một tinh thần hèn nhát, mà là xuất phát từ một nhận thức rõ ràng về lợi ích quốc gia dân tộc, về yếu tố lợi - hại của vấn đề, xuất phát từ nhiều lý do khách quan nằm trong mục đích duy nhất đó là lợi ích dân tộc và sự mong muốn bảo vệ chủ quyền và hòa bình ổn định trong nước và khu vực. Đó là những cái chính, những cái cao nhất và quan trọng nhất.

Người làm chính trị có thực tâm và thực tài là những người biết phân biệt giữa cái lợi của một người, cái lợi của một nhóm, và cái lợi tổng thể của cái chung, của dân tộc, đất nước. Và chủ quyền và sự hòa bình chính là cái lợi lớn đó.

Lãnh đạo có tài và có tâm họ đặt nặng và coi trọng vào cái lợi lớn, cái lợi ích chung đó. Họ đặt tình cảm vào cái chung, cái lớn, toàn dân, toàn quốc, nặng hơn cái tình cảm cá nhân với 1 người hay 1 nhóm, cái riêng tư, cục bộ. Đặt nặng cái lâu dài hơn cái nhất thời. Lý trí làm chủ cảm tính.

Họ cũng căm tức như chúng ta, nhưng họ có trách nhiệm khác chúng ta, họ có trách nhiệm gánh vác to lớn, họ không có quyền bị nô lệ cảm xúc, bị cảm tính điều khiển hành động, hành động cốt miễn sao hả dạ, hả giận, hả hê, thỏa mãn, bất chấp tất cả, rồi sau đó thế nào họ mặc kệ, không chịu trách nhiệm. Nếu vậy thì đó mới là một chính phủ vô trách nhiệm. Chiến tranh đổ máu, mất thêm chủ quyền lãnh hải lãnh thổ, thì ai chịu trách nhiệm? Chính họ chứ còn ai!

Cứ "ôn cố tri tân" thì chúng ta sẽ nhìn ra được rất nhiều điều. Lê Lợi sau khi giành được độc lập, lên ngôi vua, không vinh danh tưởng niệm những người lính chém chết Liễu Thăng (tướng Minh chết trận ở Đại Việt) mà lại còn đúc tượng vàng Liễu Thăng bằng tiền thuế của dân để cống cho triều Minh mỗi khi đi sứ (lệ cống người vàng này đến năm 1718 mới hết), xưng thần, tiến cống, xin sắc phong, chấp nhận làm 1 An Nam quốc vương, thần tử trên danh nghĩa, không có căn cước quốc gia chính thức, chấp nhận địa vị phiên thuộc đối với nhà Minh.

Nhưng không có sử gia nào sau này gọi Lê Lợi là hèn, bởi vì sao, bởi vì đó không phải là xuất phát từ tinh thần hèn nhát, Lê Lợi đã bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thực tế cho đất nước, xuất phát từ tinh thần thực tế, từ ý tốt muốn củng cố thái bình, muốn chấm dứt hẳn binh đao để xây dựng Đại Việt, xuất phát từ ý thức "tránh voi không hổ mặt nào", "1 câu nhịn 9 câu lành" v.v. Xuất phát từ lợi ích của quốc gia dân tộc, chủ quyền xã tắc và sự thái bình an lạc của muôn dân.

Ông hiểu rằng nước nó lớn, người nó đông, kinh tế nó mạnh, nó thua ta vài lần thì cùng lắm quân nó chết, kinh tế nó tổn hại một chút, còn dù ta thắng thì sao? Nước non tan hoang, kinh tế đổ vỡ, phải xây dựng lại từ đầu, đất nước kiệt quệ, sức dân khốn cùng. Rốt cuộc cũng vẫn phải nhượng bộ nó vấn đề này vấn đề kia để mưu cầu thái bình để cho quân dân nghỉ ngơi.

Trong thời kỳ chống Trung Quốc (1979-1992), năm 1979 quân ta đánh nhau ác liệt với quân Trung Quốc tại miền Bắc, gây cho chúng tổn thất nặng nề và đánh lui chúng về nước. Nhưng trong thời gian sau đó tới năm 1992 chúng ta vẫn chống Trung Quốc công khai, coi là "kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất", nhưng cũng không có những tưởng niệm, vinh danh xứng tầm hay nhắc lại, phổ biến thông tin gì nhiều về cuộc chiến này trong thời gian đó. Nhiều thông tin về những trận đánh nhỏ sau đó để giành lại từng tấc đất của Tổ quốc, ví dụ trận đánh Lão Sơn, đều được bảo mật ngay trong thời kỳ chống Trung Quốc đó.

Năm 1988, sau hải chiến Trường Sa, đài báo Việt Nam năm đó cũng không nhắc nhiều. Như vậy có phải là hèn? Ngay cả đánh mà ta còn dám đánh thì sao có thể gọi là hèn? Đánh còn dám đánh, cầm súng bắn thẳng vào lính Tàu mà còn dám thì sao không dám nói, không dám nhắc? Đó, vấn đề là ở chỗ đó, đó không phải là hèn, mà đó là vì chúng ta không muốn leo thang chiến tranh thành một cuộc chiến quy mô lớn, chúng ta cần ổn định chính trị xã hội để xây dựng và bảo vệ nước nhà.

Trong tất cả những hành động đó, có thể thấy rõ ràng là: Xưa nay Việt Nam luôn đặt chủ quyền lên trên hết, vì chủ quyền thì khi cần đánh chúng ta vẫn phải đánh, dù những vùng đất mà Trung Quốc vẫn còn cố đóng giữ sau năm 1979 không có bao nhiêu giá trị địa lý, đất đai, kinh tế, quân sự, nhưng vì nó là đất tổ tiên, nó là chủ quyền, cho nên ta vẫn đánh để giành lại.

Ta không hy sinh chủ quyền chỉ vì muốn hòa bình. Ta không dùng chủ quyền để đánh đổi hòa bình. Nên ta đã đồng thời vừa đánh để giành lại chủ quyền, vừa bảo mật thông tin để tránh biến nó thành 1 làn sóng phẫn nộ, tạo điều kiện cho Mỹ và phản động khoét sâu và kích động leo thang lên thành 1 cuộc chiến quy mô.

Những năm tháng chống Trung Quốc trong thời gian 1979-1992 đó đã cho chúng ta thấy rất rõ sự nhất quán trước sau như 1 về đường lối chủ trương của Đảng. Đó là 1. Chủ quyền, 2. Hòa bình. Chúng ta vừa đánh để giành chủ quyền vừa tìm cách giữ cho nó trong sự kiểm soát, không để bất kỳ thế lực thứ 3 nào lợi dụng, khoét sâu, kích động để leo thang cuộc chiến, cố gắng vãn hồi hòa bình, cố gắng tránh xung đột quy mô lớn.

Trong những ngày cuối tháng 2 trong cuộc chiến chống Trung Quốc năm 1979, Quân đội Nhân dân Việt Nam còn dám đánh sâu vào lãnh thổ Trung Quốc, đánh thẳng vào hai thị trấn Ninh Minh thuộc tỉnh Quảng Tây và Malipo thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Đó là lần thứ 2 trong lịch sử Việt Nam mà một quân đội Việt Nam đánh vào lãnh thổ Trung Quốc, lần thứ nhất là cuộc "tấn công để phòng thủ" của Lý Thường Kiệt. Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đánh vào Trung Quốc là để tiêu diệt kho hậu cần mà giặc Tống chuẩn bị để tiến đánh Đại Việt. Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh vào Trung Quốc là để trả đũa và răn đe. Sự việc này nhiều tài liệu quốc tế đã ghi nhận, nhưng Việt Nam lại không tuyên truyền nhiều về nó vì những phức tạp ngoại giao và chính trị, nhưng ngay cả việc đánh vào đất Tàu mà còn dám thì chúng ta nên tự hiểu là Việt Nam có hèn hay không.

Ngay sau năm 1975 thì QĐNDViệt Nam và Khmer Đỏ đã giao chiến ở biên giới Tây Nam. Quân ta đã từng đánh sâu vào lãnh thổ của chúng để răn đe. Nhưng có nhiều thông tin lúc đó ta cũng đã tạm bảo mật. Không lẽ vậy có nghĩa là ta hèn trước Pol Pot? Cái gì cũng có lý do của nó. Nhưng sự thật cho thấy là ngay cả việc đánh vào đất địch mà ta còn dám, lật đổ kẻ thù ta còn dám, thì chắc chắn không phải là hèn.

Ngày nay cũng vậy, một mặt chúng ta tích cực mua sắm và sản xuất vũ khí, hiện đại hóa hải quân, không quân, liên tục và thường xuyên tuyên bố phản đối những hành động của Trung Quốc và khẳng định chủ quyền của Việt Nam, để giữ cho những vùng tạm chiếm vẫn là "vùng tranh chấp" theo pháp lý quốc tế (Vì chủ quyền). Mặt khác chúng ta cố gắng duy trì hiện trạng, giữ gìn hòa bình, không để bất cứ sự kiện gì có thể đưa đến leo thang, có thể liên kết với các sự kiện khác trở thành leo thang xung đột rồi bùng nổ chiến tranh (Vì hòa bình).

Và bảo vệ hòa bình trong thời điểm hiện nay cũng chính là bảo vệ chủ quyền (vì tương quan hiện nay mà đánh thì sẽ mất thêm). Cho thấy sự nhất quán của Việt Nam từ trước tới nay.

Đảng và Nhà nước Việt Nam vì lợi ích đất nước, vì chủ quyền và hòa bình, quyết tâm nhất quán trước sau như 1, đó là điều chắc chắn. Giặc kéo tới xâm lược thì ta sẽ giáng trả để trực tiếp bảo vệ chủ quyền đất nước. Giặc chưa kéo tới xâm lược thì ta mua sắm, sản xuất mới, hiện đại hóa quân đội, tập trận để răn đe giặc và chuẩn bị cho công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước.

Và thường xuyên tuyên bố chủ quyền để địch không thể hợp thức hóa, hợp pháp hóa, chính danh hóa, biến vùng tranh chấp thành vùng sở hữu của chúng. Và đồng thời ngăn ngừa những mầm mống có thể gây leo thang xung đột mà không liên quan đến chủ quyền, nhằm bảo vệ hòa bình. Ví dụ, mọi sự tuyên bố chủ quyền có giá trị với luật pháp quốc tế hay các hành động hành xử chủ quyền, tập trận, nâng cấp, mua sắm, chế tạo vũ khí, hiện đại hóa hải quân và không quân tuy rằng sẽ gây leo thang xung đột nhưng nó vẫn cần làm vì nó liên quan trực tiếp với chủ quyền, liên quan tới mục tiêu bảo vệ chủ quyền, mà ta đặt chủ quyền ưu tiên lên trên mong muốn hòa bình.

Nhưng đồng thời, những vấn đề không liên quan tới chủ quyền thì ta có thể hy sinh, tạm gác lại, tạm khép lại v.v. để giữ gìn mục tiêu thứ hai, đó là hòa bình và ổn định, và cũng là để bảo vệ mục tiêu thứ nhất, đó là chủ quyền và lãnh thổ - lãnh hải, vì một khi chiến tranh xảy ra, với tương quan lực lượng hai bên, Việt Nam sẽ mất thêm chủ quyền và sau đó sẽ tiếp tục đối phó với nguy cơ mất thêm chủ quyền, sẽ còn mất nhiều thêm và dễ dàng mất thêm chủ quyền dài dài, còn phải nhượng bộ nhiều hơn, vì sau chiến tranh thì vũ khí của chúng ta sẽ gần như sạch vốn, hay ít nhất là yếu kém đi rất nhiều, và công cuộc hiện đại hóa sẽ phải xây lại từ đầu. Trong quan hệ quốc tế cái tư thế và thực lực yếu - mạnh là yếu tố quyết định, xưa nay đều là vậy, thế yếu với thế mạnh khác nhau xa lắm, không thể duy ý chí cái gì cũng coi là như nhau, ngang nhau, cái gì cũng có thể làm được trong một thế yếu, lực yếu, không thể ngây thơ coi mạnh - yếu như nhau và bên yếu có thể hành xử như bên mạnh.

Nhìn lại thời kỳ chống Trung Quốc, nhiều người chê trách ông Lê Duẩn quá cứng rắn nên mới để cho chiến tranh xảy ra, chứ nếu là Bác Hồ thì đã ngoại giao mềm dẻo hơn, kiềm chế hơn, đã giữ được không để leo thang xung đột thành chiến tranh. Ngày nay các lãnh đạo đã rút kinh nghiệm thời Lê Duẩn nên đang làm khác đi, thì cũng lại bị chê trách.

Nếu nhìn lại lịch sử, ôn cố tri tân, thì chúng ta thấy Việt Nam nhượng bộ Trung Quốc không phải vì Việt Nam và Trung Quốc cùng ý thức hệ, cùng phe, mà vấn đề này nằm trong một sách lược chung, một chiến lược đối Trung Quốc xuyên suốt từ lịch sử trung đại cho đến nay. Đó là sách lược mềm dẻo, nhẫn nhịn để "cận giao" (hòa gần), có thể nhượng bộ nhiều thứ, xin sắc phong, chấp nhận làm một "thần tử" trên danh nghĩa, thậm chí dùng cả tiền thuế của dân để triều cống v.v. miễn sao giữ được chủ quyền, độc lập và giữ được thái bình, yên ổn. Thời phong kiến nào cũng vậy, kể cả những triều đại, nhà nước anh hùng nhất trong lịch sử Việt Nam.

Việt Nam nhẫn nhịn thận trọng trước Trung Quốc không phải vì có cùng ý thức hệ chính trị, hệ tư tưởng chính trị, mà là vì Trung Quốc là một nước mạnh, có sức mạnh kinh tế và quân sự mạnh hơn gấp bội, hiếu chiến, và có vị trí địa lý sát bên, đúng nghĩa "núi liền núi - sông liền sông", và đã có tiền lệ hung hăng gây chiến, lấn chiếm đất đai, xung đột quân sự đẫm máu với nhiều láng giềng, trong đó có Việt Nam. Nói theo kiểu dân dã thì Trung Quốc là một "gã hàng xóm khổng lồ" của Việt Nam.

Trong Thời đại Hồ Chí Minh những ngày đầu độc lập, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo cũng đã nhượng bộ Tàu Tưởng rất nhiều vấn đề (Tàu Tưởng với ta khác ý thức hệ). Cụ thể:

- Khi "Hoa quân nhập Việt", đội quân vô kỷ luật của Trung Hoa Quốc dân đảng cướp phá bà con, cướp gà cướp vịt để ăn nhậu, nhũng nhiễu lương dân. Chính phủ ta lúc đó vẫn ra lệnh cho các lực lượng Dân quân - Tự vệ, du kích địa phương phải đề cao cảnh giác, kiểm soát chúng (với danh nghĩa "bảo vệ" cho chúng), nhưng không được nổ súng trước. Phải kỷ luật tối đa.

- Sau khi trên 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc kéo vào Hà Nội và hoàn thành việc đóng quân ở nhiều vùng trên đất Bắc, thì chúng càng tăng cường lộng hành, tác quái, vô pháp vô thiên. Quân lính ô hợp của Quốc dân đảng cướp phá khắp nơi, bắt gà bắt vịt của dân đem đi nhậu nhẹt. Bọn tay sai người Việt thì dẫn quân Tàu đi lùng giết những người mà chúng gọi là "cộng sản", "theo Việt Minh".

Được hơn 20 vạn quân Tàu chống lưng, các đảng phái phản động tác oai tác quái, dùng xe của Tàu Tưởng chạy khắp đường phố Hà thành bắc loa chửi bới Việt Minh và kể tội chủ tịch Hồ Chí Minh, hô hào tẩy chay bầu cử Quốc hội khóa 1. Các đảng phái theo Tàu liên tục dùng báo chí tuyên truyền đả kích Việt Minh: "Trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản... Chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được, tổ chức các cuộc "tuần hành", bắc loa hô hào kêu gọi tẩy chay bầu cử.

Chúng tổ chức bắt cóc, ám sát ứng cử viên, đảng viên cộng sản, cán bộ Việt Minh (ví dụ ông Trần Đình Long) hay thủ tiêu những cá nhân, tổ chức có cảm tình với chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Trong ngày tổng tuyển cử Quốc hội lịch sử năm 1946, bọn tay sai Tàu Tưởng mang súng tiểu liên đến Ngũ Xã ngăn không cho đặt hòm phiếu, cấm người dân treo cờ đỏ sao vàng. Người dân Ngũ Xã rủ nhau kéo sang nơi khác bỏ phiếu.

Những tên tay sai của Tàu Tưởng dựa hơi chủ hoành hành đến như vậy nhưng Bác Hồ vẫn nhượng bộ Trung Hoa Dân Quốc mà chấp nhận "bố thí" cho Nguyễn Hải Thần (1 người luôn mặc đồ Tàu, nói tiếng Tàu rành hơn tiếng Việt), Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Tường Tam và những kẻ khác 70 ghế trong Quốc hội mà không cần bầu cử, theo thỏa thuận trước đó giữa ta và Tàu Tưởng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong hồi ký "Những năm tháng không thể nào quên" đã viết: "Chúng càng biết rõ một cuộc tuyển cử công bằng sẽ không mang lại gì cho chúng."

- Để đối phó với yêu sách và sức ép của Trung Hoa Dân Quốc đòi giải tán quân đội chính quy của Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận tạm thời nhượng bộ, tháng 11 năm 1945, Việt Nam Giải phóng quân đổi tên thành Vệ quốc đoàn, một trong những sách lược chính trị tạm thời làm nhẹ đi tính chất quốc gia, tính chất chính thức của quân đội, tạm thỏa mãn sự đòi hỏi của Tàu Tưởng. Ngày 11-11-1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán (thực tế là rút vào hoạt động bí mật). Sau khi Tàu Tưởng về nước thì Đảng mới xuất hiện trở lại và Vệ quốc đoàn mới đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam, rồi Quân đội Nhân dân Việt Nam, được đặt dưới sự chỉ huy tập trung thống nhất của Bộ Tổng tham mưu.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh đi một nước cờ chính trị táo bạo, ký tạm ước và sau đó là hiệp định Sơ Bộ với Pháp, cho phép một bộ phận của quân đội Pháp ra đóng ở miền Bắc để ép Tàu Tưởng rút về nước. Đúng như dự kiến, Tàu Tưởng trước sức ép của quân đội cộng sản Trung Quốc trong nước, không muốn lôi thôi thêm nữa với 2 thế lực mạnh là Pháp và Việt Minh. Đứng trước 2 thế lực mạnh, họ không muốn phiêu lưu thêm nữa ở miền Bắc Việt Nam, đành chấp thuận rút quân. Bác Hồ đã thành công lợi dụng Pháp đẩy Tàu về nước.

Trong lúc quân Tàu rút về, chính phủ Việt Nam đã ra quân lệnh phải "bảo vệ" cho quân Tàu Tưởng đi về an toàn, cấm không được gây hại tới họ, ai vi lệnh sẽ xử theo quân pháp. Trong thời gian đó - trước tình trạng thiếu thốn vũ khí - có nhiều chiến sĩ Vệ quốc đoàn vì tiếc số vũ khí của Nhật bị Tàu đem về gần hết, nên muốn thừa cơ phục kích cướp lấy, trước khi đi nhiều người đã trốn cả cấp chỉ huy, tự ý hành động, có người bị phát hiện và ngăn cấm thì quyết tâm nói nếu bị lộ thì sẽ chấp nhận tử hình. Kết quả nhiều người giả cướp, giả quân phỉ và cướp vũ khí trót lọt. Nhưng cũng có không ít người thất bại, có những trận thua phải chạy về, những chiến sĩ thương vong bị địch lục áo tìm thấy được giấy tờ tùy thân, chúng kéo quân tìm tới các căn cứ của Vệ quốc đoàn vặn vẹo, hạch sách, đòi lại công đạo v.v.

Vì luật pháp, vì chính trị, vì ngoại giao, mà Nhà nước non trẻ đã phải "quân pháp bất vị thân", "đại nghĩa diệt thân", giam những chiến sĩ đó lại và có nhiều trường hợp đành phải tử hình. Nghe thì thấy ác, thấy vô cảm, nhưng là lãnh đạo, là người làm chính trị chân chính, thì đôi khi phải gạt bỏ tình riêng để mà vì cái lợi chung, đặt đại cuộc lên trên hết, lấy đại cuộc làm đầu.

Nói chung, tất cả những sự nhượng bộ từ lịch sử phong kiến tới nay đều vì đại cuộc, vì lợi ích lớn của dân tộc, vì những sách lược chính trị, chiến lược đối ngoại tạm thời. Thời đó chính phủ Hồ Chí Minh cũng bị những kẻ phản động kích động, nâng quan điểm lên rồi mắng nhiếc, chửi rủa là "hèn nhát", "nhục quốc thể", "nhục nhã", "mất mặt", "mất danh dự" v.v. Tay sai của Pháp thì chửi tại sao ta nhường nhịn "kẻ thù truyền kiếp Trung Hoa". Tay sai của Tàu Tưởng, Nhật thì lại chửi việc ta ký hiệp định Sơ Bộ, họ xuyên tạc rằng đó là "hiệp ước bán nước", "Hồ Chí Minh bán nước cho Pháp" v.v. Nhưng những chiến công hiển hách và những kết quả độc lập - thống nhất - hòa bình sau đó đã cho câu trả lời, đã cho thấy những quyết sách đó là đúng.

Ngẫm nghĩ lại những sự việc trên và thời điểm lịch sử lúc đó, nên tự hỏi, vì sao chủ tịch Hồ Chí Minh không ngại một cuộc chiến với thực dân Pháp bằng e ngại một cuộc chiến với Tàu Tưởng? Trong khi quân Pháp thiện chiến, chuyên nghiệp, vũ khí hiện đại hơn quân ô hợp với những vũ khí lạc hậu của Tàu Tưởng rất nhiều. Đó là vì Bác Hồ hiểu người phương Tây vốn thực dụng và Pháp là bọn ở xa, đánh xong rồi thôi, thua xong rồi thôi. Còn một khi có chiến cuộc với người Trung Quốc, gã hàng xóm khổng lồ ở sát bên cạnh, thì sẽ lắm gay go về lâu dài. Xin lưu ý, năm 1946 Tàu Tưởng vẫn còn rất mạnh ở Trung Quốc và lúc đó vẫn chưa thể biết phe Tưởng hay phe Mao sẽ thắng.

Người làm chính trị luôn lo đến cái lợi lớn của đất nước, cái tổng thể, cái chung nhất, cái lâu dài, cái bền vững, không để những tiểu tiết làm hư đại sự, không vì muốn thỏa mãn những cảm tính, tự ái dân tộc mà làm hỏng đại cuộc.

Vì những lẽ lợi - hại đó, vẫn sẽ có những hạn chế phần nào trong báo chí và dư luận để phục vụ cho sách lược đối ngoại chung đối với Trung Quốc, giữ cho tất cả trong vòng kiểm soát, không leo thang căng thẳng, dần đưa tới mâu thuẫn, từng bước đưa đến xung đột quân sự và chiến tranh quy mô. Đồng thời không để thế lực thứ ba nào lợi dụng tình hình căng thẳng giữa hai bên để trục lợi.

Còn đối với những kẻ phản động, chống cộng ở hải ngoại, từng có "thành tích" bán nước, theo giặc 3 đời vẫn luôn miệng tuyên truyền dối trá nâng quan điểm về những cái gọi là "đại họa mất nước" (?), "Việt Cộng bán nước", "Cộng sản Việt Nam dâng đất bán biển" v.v. thì họ là những kẻ thù hận điên cuồng, u mê mù quáng, không dám chấp nhận sự thật. Chúng ta không quan tâm và không hy vọng gì vào những phần tử này. Khi Việt Nam giữ quan hệ bình thường với Trung Quốc thì họ vẫn sẽ còn tiếp tục bám vào đó, sống ký sinh lên trên đó và tiếp tục chửi bới.

Nhưng nếu Việt Nam chuyển sang chống Trung Quốc như trong giai đoạn 1979-1992 thì cũng không có khả năng nào họ theo Việt Nam chống Trung Quốc, mà trái lại họ sẽ càng lợi dụng phá thêm và mong muốn Trung Quốc chiến thắng, như họ đã từng mong muốn "Trung Cộng đánh thẳng vào Hà Nội giết sạch Việt Cộng" năm 1979. Như họ nhân lúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang chống xâm lược mà kích động, tổ chức phá trại cải tạo, vào rừng lập "chiến khu" chống Việt Cộng, khủng bố đặt bom khắp các đô thị miền Nam, thời ấy họ lợi dụng thời cơ khi giặc Tàu đang xâm lược và đánh nhau với Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Bắc thì ở miền Nam thỉnh thoảng vẫn có những tiếng nổ do bọn phản động - khủng bố phá hoại. Bọn Fulro và bọn khủng bố tiền thân của Việt Tân nhân cơ hội chiến tranh đó, đã "đục nước béo cò", "thừa nước đục thả câu" mà thừa cơ đánh phá vào trong nước, đem tiền giả, ma túy, súng đạn vào khủng bố trong nước. Những kinh nghiệm từ lịch sử vẫn còn rành rành ra đó.

Đây là bọn phản quốc và trên thực tế đã chống dân tộc, chống nhân dân, chống đất nước, chống Tổ quốc nhiều đời, nhiều lần trong lịch sử hiện đại, chứ không chỉ có chống Đảng Cộng sản, chống Hồ Chí Minh, chống CNXH, chống CNCS. Vì vậy chúng ta nên tin vào những người có uy tín chống xâm lược, không nên hùa theo những kẻ từng ô danh theo giặc xâm lược, phản bội Tổ quốc.

Họ trung thành với nước Mỹ chứ không phải trung thành với nước Việt. Họ yêu bản thân chứ không yêu nước. Mục đích tối hậu của họ là lật đổ Nhà nước Việt Nam để phục hận sau khi những lợi ích gắn liền với giặc xâm lược của họ bị mất sạch sau khi Việt Nam thắng Mỹ. Họ muốn trở về rửa hận, lấy lại những gì đã mất, để tranh quyền giành ghế, tranh giành quyền lực để được làm ông nọ bà kia. Mối quan hệ phức tạp Việt - Trung chính là một trong những chiêu bài để họ nắm lấy, khai thác, và lợi dụng để thực hiện mục đích tối hậu đó, vì lợi ích riêng của chính bản thân họ, bất chấp lợi ích chung của đất nước và dân tộc.

Họ hô hào kích động chiến tranh vì nếu xảy ra chiến tranh thì chỉ có máu đồng bào trong nước đổ, đất nước Việt Nam điêu tàn, kinh tế Việt Nam thảm hại, cuộc sống người dân điêu đứng, chứ họ ở bên Mỹ, ở hải ngoại, cách Việt Nam nửa vòng trái đất, họ không chịu trách nhiệm và không bị một sự ảnh hưởng nào. Đôi khi vì cái Tôi của mình, một số họ cũng tự thôi miên và tưởng rằng ta đây "yêu nước" thật, không dám nhìn thẳng vào sự thật là họ đang đi ngược lại với quyền lợi dân tộc và đất nước, làm trái lại với những nguyện vọng và lợi ích của nhân dân Việt Nam, họ dối mình gạt người và lừa gạt cả con cháu, tuy nhiên nhiều người trẻ thế hệ 3, 4 ở hải ngoại sau khi tiếp cận với những thông tin trong nước và các thông tin khách quan quốc tế, cũng đã dần dà hiểu ra vấn đề.

oOo

Việt Nam là đối tượng dễ xảy ra chiến tranh với Trung Quốc nhất không hẳn vì Việt Nam không được Mỹ chống lưng, mà chủ yếu là vì địa lý gần gũi, thuận lợi và tương quan thực lực quốc phòng giữa hai bên. Lịch sử đã cho thấy dù Trung Quốc đang quan hệ với Mỹ như thế nào thì khi cần đánh, thấy đánh được thì họ vẫn đánh, không hề sợ Mỹ. Ví dụ chiến tranh Triều Tiên và những nỗ lực thống nhất Đài Loan trong những năm cuối 1940, đầu 1950. Hay như năm 1974, Mỹ ở ngay trong khu vực, Hạm đội 7 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ đang lù lù ngay đó nhưng họ vẫn thỏa hiệp được với Mỹ rồi tiến vào chiếm đóng Hoàng Sa.

Hiện nay, Trung Quốc chưa đánh Đài Loan không phải vì Đài có Mỹ, mà là vì sức mạnh quân sự và khả năng tự vệ của Đài Loan. Họ chưa đánh Philippines không phải vì Phi có Mỹ, mà vì Phi ở xa, Malaysia không có ai chống lưng và tiềm lực quốc phòng không mạnh, nhưng họ cũng chưa đánh vì ở xa, địa lý không thuận lợi, chưa thích hợp. Trung Quốc phải vượt qua chướng ngại vật Việt Nam rồi mới có thể mở đường ra, dùng các lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam làm căn cứ, làm cơ sở, làm bàn đạp, bành trướng xuống Đông Nam Á. Chưa vượt qua nổi Việt Nam thì chưa thể bành trướng xuống phương Nam.

Cũng vậy, Trung Quốc chưa đánh Hàn Quốc, Nhật Bản không phải vì Hàn - Nhật có chiếc dù Mỹ, mà vì thực lực quốc phòng của 2 nước này. Nga, Ấn Độ không có Mỹ chống lưng nhưng chưa bị Trung Quốc đánh là vì họ cũng có tiềm lực quốc phòng, năng lực tự vệ mạnh mẽ, sức mạnh răn đe đáng kể.

Tất cả những quốc gia trên đều đang có tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải, biên giới với Trung Quốc nhưng chưa bị tấn công đều không phải nhờ chiếc dù của ngoại bang nào, mà đều vì chính sức mạnh quốc phòng của họ hoặc địa lý của họ chưa thích hợp cho Trung Quốc khởi binh. Việc được các ông lớn, nhất là Mỹ chống lưng chỉ làm chùn bước Trung Quốc phần nào, nhưng như lịch sử đã cho thấy, khi cần đánh thì họ vẫn sẽ đánh, từ năm 1950 một Trung Quốc lạc hậu đã không sợ Mỹ, dám đem 100 vạn quân vào bán đảo Triều Tiêu đánh nhau trực tiếp với Mỹ, thì một Trung Quốc hiện đại hóa, kỹ thuật cao, công nghệ tối tân ngày nay cũng sẽ không sợ Mỹ.

Theo thạc sĩ Lê Hồng Hiệp, giảng viên của Khoa Quan hệ Quốc tế, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh thì Việt Nam nên tránh Mỹ và các đại siêu cường, mà nên thiết lập quan hệ an ninh – quốc phòng chiến lược với các thế lực bậc trung.

Đây là điều hợp lý, thường trong quan hệ quốc tế và trong quan hệ con người nói chung, trong bất kỳ mối quan hệ nào, thường thế và lực giữa hai bên phải không quá chênh lệch thì mối quan hệ mới công bằng và dễ có sự chân tình với nhau. Một bên quá mạnh và một bên quá yếu thì khó thể có mối quan hệ công bình, bình đẳng, đến một lúc nào đó nước nhược tiểu kia sẽ trở thành vật hy sinh của "ông bạn lớn", bị "đồng minh" bán rẻ, bán đứng, đâm sau lưng, các "ông lớn" sẽ gạt mình qua một bên để thỏa thuận sau lưng, thỏa hiệp trên lưng với nhau rồi sẵn sàng hy sinh lợi ích của mình vì lợi ích của họ.

Tuy nhiên, cái gì cũng có thể có ngoại lệ, căn cứ vào logic thông thường hiện nay, cường quốc quân sự duy nhất trên thế giới ngày nay mà Việt Nam có thể xem xét thiết lập một mối quan hệ đồng minh chiến lược chính là Nga. Hai nước có cái tình và có sự ít nhiều tin tưởng nhau (ít nhất là tin rằng 2 bên không làm hại nhau, không có nhu cầu hại nhau) từ thời Liên Xô. Và Việt Nam lâu nay vẫn là bạn hàng, đối tác tin cậy của Liên bang Nga. Không có nhiều quyền lợi, lợi ích mâu thuẫn, trái ngược nhau. Có sự thuận lợi đặc thù về địa lý, Nga - Việt không ở gần nhau và không có mâu thuẫn về lãnh thổ, mà lại có một mối quan hệ chiến lược từ vị trí địa lý, khi 2 nước cùng như một gọng kìm ép Trung Quốc vào giữa. Nếu Việt - Nga kiên quyết giữ mối quan hệ mang tầm chiến lược lâu dài này thì sẽ có tác dụng ngăn ngừa, kiềm chế và hạn chế phần nào những tham vọng và sự gây hấn của Trung Quốc.

Nga không muốn Trung Quốc vượt lên mình quá xa, làm lu mờ đi vai trò của Nga, gạt đi tầm ảnh hưởng và sức mạnh của Nga trong khu vực, thậm chí trở thành mối đe dọa thường trực của Nga ở phía Nam. Hiện Trung Quốc vẫn đang chiếm giữ nhiều lãnh thổ của Nga nơi biên giới.

Theo BLOGGER THIẾU LONG

Xem thêm →

Danh mục

 

Bài viết tiêu điểm

Từ khoá hot: Hoat dong thu tuong Nguyen Tan Dung , Nguyen Tan Dung, Tiểu sử CTN Trương Tấn Sang, Bi thu Le Thanh Hai, Hoat dong Bo truong Tran Dai Quang, tieu su Tran Dai Quang, Vai trò Thủ tướng, Tiểu sử TBT Nguyễn Phú Trọng, Do Ba Ty, Nguyen Thanh Phuong, Vo Van Thuong, Nguyen Bao Hoang
Thon Lam Bao Thon Lam Bao
9.9105000000 Designed by